Thursday, January 18, 2018

Lý thuyết “Không gian sinh tồn” – Tham vọng của Trung Quốc

Dựa trên quan điểm của nhà sinh vật học Darwin và nhà động vật học Ersnt Heinrich Haelkel, Friedrich Ratzel đã hình hình thành một học thuyết có ảnh hưởng mạnh mẽ tới giới địa chính trị ở nữa cuối thế kỷ XIX, đó là lý thuyết “không gian sinh tồn”.
Lý thuyết này được ra đời trong bối cảnh nền công nghiệp của các nước châu Âu đang trên  đà phát triển trong đó có đế quốc Đức. Tuy nhiên,Đức cũng như các nước đang phát triển lại đang bị kìm kẹp và hạn chế thuộc địa, hạn chế không gian phát triển bởi các cường quốc cũ như Anh, Pháp. Các cường quốc cũ đã thâu tóm thuộc địa và thị trường  ở nhiều khu vực trên thế giới. Vì vậy mà lý thuyết “không gian sinh tồn” ngay lập tức được các nước đế quốc trẻ đón nhận như là kim chỉ nam cho tham vọng bành trướng của mình.
Theo lý thuyết của Fredrich Ratzel và người học trò Kjellen cho rằng quốc gia là một cơ thể hữu cơ đang phát triển, biên giới của nó mang tính động chứ không phải tính tĩnh, nghĩa là nó phải được lớn lên như một cơ thể hữu cơ. Trong đó hai yếu tố được các học giả này nhấn mạnh là yếu tố không gian và chính sách tự túc, tực cấp của một quốc gia.
Kjellen đã tiếp thu và phát triển về lý thuyết không gian sinh tồn của Ratzel, lý thuyết của Kjellen ngoài quan niệm quốc gia như một cơ thể sinh học, ông còn nhấn mạnh đến yếu tố không gian và chính sách tự túc tự cấp của một quốc gia.
Ông cho rằng các quốc gia có sức sống mạnh với  một phạm vi chủ quyền hạn chế sẽ bị thôi thúc quyết liệt theo hướng mở rộng lãnh thổ của mình bằng công cuộc chiếm thuộc địa, liên minh với các quốc gia khác hoặc chinh phục theo nhiều kiểu khác nhau…đó không phải là bản năng chinh phục thô thiển, mà là xu hướng bành trướng tự nhiên và cần thiết như là một phương tiện tự bảo tồn, là một công cụ sinh tồn.
Kjellen cho rằng một quốc gia muốn trở thành một cường quốc thế giới cần hội đủ ba yếu tố sau:
Thứ nhất, quốc gia cần phải có một không gian rộng rãi, tức là nó phải tồn tại trong một khu vực đất liền cận kề rộng lớn.
Thứ hai, nó phải có một sự cố kết nội tại để trở thành quốc gia mạnh. Ông đã nói nước Anh sẽ không bao giờ trở thành cường quốc thế giới được bởi vì nó thiếu cả hai điều kiện trên: nó không có không gian rộng lớn cũng như nội bộ không có tính cố kết cao, trong long xã hội có sự chia sẽ sâu sắc.
Thứ ba, quốc gia lớn cần phải có sự tự do di chuyển. Theo tiêu chí này thì nước Nga có không gian rộng và sự cố kết nối bên trong, nhưng ông cho rằng nó không bao giờ trở thành cường quốc vì nó không có con đường tiếp cận với cảng nước ấm.
Ratzal và kjellen đã tạo cơ sở biện minh cho mọi hành động bành trướng lãnh thổ của một quốc gia và là nền tảng tinh thần của tư tưởng địa chính trị của Đức.
Cũng theo lý thuyết này, nó có những hạn chế nhất định: thứ nhất, lý thuyết không gian sinh tồn biện minh cho sự bành trướng, xâm lược của quốc gia lớn với các quốc gia nhỏ, yếu, gây nên tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”. Thứ hai, lý thuyết này là  nguyên nhân làm xuất hiện chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa sovanh, là công cụ cho chủ nghĩa phát xít sử dụng vì mục đích bá chủ toàn cầu. với lý thuyết không gian sinh tồn là cơ sở cho nước Đức mở rộng bờ cõi, là nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới thứ I, II gây thảm họa thảm khóc cho nhân loại. thứ ba, nó là nguyên nhân gây ra nhiều tội ác chiến tranh, nước mạnh có thể dùng mọi thủ đoạn để chiếm được nước yếu mà vẫn xem đó là lẽ tự nhiên trong quy luật sinh tồn.
Nếu như Đức là đế quốc đã sử dụng học thuyết này trong thế kỷ XX gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc, thì nay Trung Quốc được cho là quốc gia cũng đang theo học thuyết “không gian sinh tồn” để hiện thực hóa giấc mơ Trung Hoa, vươn lên thành cường quốc số một thế giới.
Thứ nhất, Trung Quốc luôn có ý đồ mở rộng lãnh thổ của mình, trong đó có xu hướng mở rộng xuống phía Nam, phía Đông lãnh thổ Trung Quốc. Tháng 5 năm 2009 Trung quốc gửi Công hàm lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tuyên bố chủ quyền tối cao đối với “các đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận” kèm một bản đồ với chín đoạn thể hiện chủ quyền của mình trên biển. Với động thái này, Trung Quốc bắt đầu lộ rõ tham vọng mở rộng lãnh thổ, mở rộng không gian sinh tồn xuống phái nam. Cũng vào tháng 7 năm 2016 Chính quyền Bắc kinh tuyên bố sẽ thực hiện mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông, bao gồm việc thiết lập vùng nhận dạng phông không (ADIZ). Với những tham vọng bành trướng lãnh thổ, mở rộng không gian sinh tồn của mình Trung Quốc đã gây nên tình trạng căng thẳng, mẫu thuẫn ở Biển Đông, gây tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với Việt Nam, tranh chấp đảo Điếu Ngư với Nhật Bản, tranh chấp bãi cạn Scarborough với Philippines…
Bản đồ đường chín đoạn theo tuyên bố của Trung Quốc
Thứ hai, không gian sinh tồn của Trung quốc không chỉ mở rộng trên bình diện lãnh thổ địa lý mà còn cả trên bình diện kinh tế. Trung quốc không ngừng đầu tư ra nước ngoài, cung cấp, hỗ trợ về mặt kinh tế cho các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước ở Đông Nam Á, không ngừng tạo điều kiện để các doanh nghiệp Trung Quốc xâm nhập và thâu tóm thị trường các nước mới nổi và có tính cạnh tranh kém, trong đó có Việt Nam, Campuchi và Lào…Tăng cường hỗ trợ kinh tế, thâu tóm kinh tế, làm cho các nước mới nổi ngày càng phụ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc là một trong những bước đi để buộc các nước phải phụ thuộc về mặt chính trị, từng bước dẫn dắt chính sách đối ngoại của các nước phụ thuộc. Do đó, các nước phụ thuộc hoặc hợp tác kinh tế cần phải làm chủ, tránh phụ thuộc quá mức về kinh tế.
Thứ ba, một không gian sinh tồn nữa mà Trung Quốc chú trọng mở rộng và phát triển trên con đường tham vọng chinh phục giấc mơ Trung Hoa của mình là không gian văn hóa. Bước đầu để mở rộng không gian văn hóa là truyền bá ngôn ngữ và phong tục tập quán của người Hoa sang các nước lân cận. Trung quốc đã tiến hành thành lập học viện Khổng Tử ở các nước Đông Nam Á và một nước trên thế giới. Học viện Khổng Tử là hệ thống học viện công phi lợi nhuận, liên kết với bộ giáo dục Trung Quốc, thành lập với mục tiêu quảng bá tiếng Hoa và văn hoá Trung Hoa, giảng dạy tiếng Hoa cho mọi đối tượng trên toàn thế giới đồng thời tạo điều kiện thuận lợi giao lưu văn hóa và truyền bá tư tưởng cũng như văn hoá Nho giáo ra thế giới. Tính đến đầu 2011, các trường đại học Quảng Tây đã thành lập 6 Học viện Khổng Tử tại các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh thành lập Học viện Khổng Tử thì Bắc Kinh còn tạo điều kiện để các cộng đồng người Hoa ở các nước Đông Nam Á lớn mạnh, góp phần truyền bá ngôn ngữ của mình. Lịch sử đã chứng minh rằng, muốn đồng hóa và chinh phục được một dân tộc thì phải đồng hóa được ngôn ngữ bản địa, việc Trung Quốc mở rộng không gian nói tiếng Hoa cũng là một ẩn ý cần phải xem xét lâu dài và đầy cẩn trọng.
Thứ tư, Trung Quốc hội tụ đủ yếu tố “cố kết bên trong” để trở thành một cường quốc theo học thuyết không gian sinh tồn. Nền chính trị Trung Quốc được cho là ổn định trong một quốc gia đa dân tộc với diện tích lãnh thổ rộng hơn 9.5 triệu km2 và hơn 1.3 tỷ người, khoảng 55 dân tộc khác nhau cùng sinh sống trên lãnh thổ Trung Hoa. Nền chính trị Trung Hoa đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản, thực hiện chính sách nhất nguyên chính trị, thống nhất từ trung ương tới địa phương, tạo thành một thể thống nhất. hơn nữa, các dân tộc trung hoa có tinh thần đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau rất cao, đồng thời có tính tự tôn và tinh thần dân tộc cao. Đây là những điều kiện thuận lợi để Trung Quốc vươn mình trở thành cường quốc của thế giới, tiến tới thực hiện giấc mơ Trung Hoa.
Thứ năm, Trung Quốc hội tụ đầy đủ yếu tố để “dòng chảy lưu thông”. Với vị trí địa lý thuận lợi, kết hợp với nền kinh tế mạnh Trung Quốc đã tiến dành thực hiện chiến lược “Một vành đai một con đường” với mục đích “chính sách khai thông, hạ tầng liên thông, thương mại thông suốt,nguồn vốn lưu thông và lòng dân tương thông”. “Một vành đai một con đường” được hợp nhất bởi “Vành đai kinh tế trên bộ” và “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” tạo thành một không gian sinh tồn rộng lớn, hứa hẹn mở ra thời đại huy hoàng của Trung Hoa. Với tư duy chiến lược lâu dài và tham vọng lớn của mình về “Một vành đai một con đường” sẽ giúp Trung Quốc vươn tầm ảnh hưởng, tạo nên một mạng lưới kết nối trên cả 3 châu lục lớn là Á – Âu – Phi, với dân số chiếm 63% dân số thế giới và GDP chiếm 29% GDP toàn cầu, xuất khẩu hang hóa và dịch vụ đạt 23.9% toàn cầu. Nếu thành công trong chiến lược “Một vành đại một con đường” thì Trung Quốc thực sự là một cường quốc mạnh của thế giới.
Như vậy, theo học thuyết không gian sinh tồn Trung Quốc hội tự đầy đủ những yếu tố để trở thành một cường quốc của thế giới. Với việc trung quốc mở rộng “không gian sinh tồn” với tham vọng thực hiện giấc mơ Trung Hoa đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của các quốc gia lân cận, trong đó có Việt Nam. Cũng như  những hạn chế của học thuyết này, việc Trung Quốc mở rộng “không gian sinh tồn” sẽ gây ra tinh trạng tranh chấp, xung đột lãnh thổ với các nước lân cận, gây nên tình trạng bất ổn về chính trị, trong bối cảnh quốc tế hiện nay thì các nước đang phát triển và nước nhỏ khó long mà chấp nhận được các gọi là quy luật tự nhiên “cá lớn nuốt cá bé”. Dù có muốn hay không thì Trung Quốc luôn thể hiện tham vọng bành trướng của mình trên mọi mặt trận, mọi lĩnh vực, do đó các nước nhỏ và đang phát triển cần cẩn trọng trong việc hợp tác với Trung Quốc.
Bài viết mang quan điểm cá nhân.
BCT


Tuesday, January 16, 2018

Điều gì ảnh hưởng đến lượng tiền mà một người đóng góp cho Đảng
Điều gì ảnh hưởng đến lượng tiền mà một người đóng góp cho Đảng
Hành vi là một lựa chọn của cá nhân có ý thức, và lựa chọn đó chính là một sự tính toán và có mục đích cụ thể. Xét trong phạm vi một con người bình thường thì hầu hết mọi cử chỉ, hành động của cá nhân đều là “có ý thức”, và là sự ứng xử trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quy chụp là mọi hành đọng đều có ý thức, nhưng trong khuôn khổ này, chúng ta sẽ xem xét hành vi của con người là có ý thức, có tính chủ đích, tính mục đích.
Trong hành vi của con người thường có hai thuộc tính cơ bản là tính mục đích và tính duy lý. “Tính mục đích” hàm ý mọi hành vi đều nhắm tới sự thỏa mãn nhu cầu, đem lại lợi ích nào đó cho cá nhân đó. Và tính duy lý hàm ý là con người có tư duy, suy nghĩ và tính toán so sánh để chọn hành động theo hướng tới việc nâng cao hiệu quả trong việc đạt mục đích đó
Xét ở góc độ chính trị thì một người đóng góp tiền cho đảng là một hành vi chính trị, là một hành vi có ý thức, có tính chủ đích và tính hợp lý của nó. Do đó để đánh giá yếu tố nào ảnh hướng đến lượng tiền một người đóng góp cho đảng thì phải xem xét hai khía cạnh sau: Thứ nhất, xem xét những yếu tố tác động đến sự lựa chọn chính trị hay hành vi chính trị. Thứ hai, xem xét sản phẩm chính trị - đó là người đóng tiền vào cho đảng như một loại hàng hóa giá trị được lưu thông trên thị trường. Từ góc độ xem xét 2 vấn đề đó, ta sẽ có cách đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến lượng tiền mà một người đóng góp cho Đảng, hay nói cách khác là số tiền đóng góp của một người nhiều hay ít nó phụ thuộc vào những yếu tố nào.
 Theo cách tiếp cận thứ nhất, thì hành vi đóng góp cho đảng là một hành vi chính trị, đó cũng là một sự lựa chọn chính trị, do đó nó sẽ phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản là tính lợi ích và tính lý tính (hoặc tính mục đích và tính hợp lý). Một câu hỏi đặt ra là: vậy một người đóng góp một lượng tiền nào đó cho đảng thì có mục đích gì? Bởi vì một người sẵn sàng đóng góp một lượng tiền do mình kiếm được bằng mồ hôi, công sức, thời gian và của cải thì phải mang lại một lợi ích nào đó cho họ, kể cả những nhà tình nguyện, thì ít nhất họ cũng phải nhận thấy một lợi ích nào đó tương ứng với số tiền mình bỏ ra. Trong trường hợp này, một người đóng góp một lượng tiền cho đảng có thể mang lại cho họ những lợi ích trước mắt như sau:
+ có được sụ ghi nhận của Đảng về sự đóng góp
+ có nhiều cơ hội hơn để được tham gia vào đời sống chính trị
+ Mở rộng mối quan hệ chính trị với bộ máy hệ thống chính quyền
+ thông qua cơ hội chính trị sẽ mở rộng cơ hội về kinh tế, tìm kiếm thông tin hay được cung cấp những thông tin nhanh chóng về cơ hội kinh tế
...
Đó là những mục đích có thể thấy được trước mắt khi một người đóng góp tiền cho đảng. Từ đó, lượng tiền lớn hay nhỏ, nhiều hay ít phụ thuộc vào số lượng lợi ích chính trị nêu trên ở mức độ nào, nhiều hay ít để tương ứng với số tiền bỏ ra. Từ những cơ hội chính trị có thể có được sẽ tác động đến sự lựa chọn của người đóng tiền, họ sẽ xem xét lựa chọn nào là tốt nhất, lựa chọn nào là tối ưu nhất, mà bản thân có thể có? Như vậy, trên cơ sở là lợi ích đạt được người đóng góp sẽ xem xét lựa chọn bao nhiêu (lượng tiền) sẵn sàng đóng góp cho đảng để phù hợp với lợi ích chính trị mà mình đạt được.
Ở khía cạnh thứ hai, xem xét mối quan hệ giữa người đóng góp với tư cách là người mua và với đảng ở tư cách là người bán sản phẩm thì đây sẽ là mối quan hệ hàng hóa. Một khi đã là hàng hóa thì nó phải có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng ở đây là làm thỏa mãn nhu cầu của người đóng góp (trực tiếp là lợi ích chính trị người đóng góp nhận được), còn giá trị ở đây chính là lượng tiền bỏ ra để có được lợi ích chính trị. Mà giá trị hàng hóa bao giờ nó cũng biến thiên theo quan hệ cung – cầu trên thị trường, như vậy lượng tiền đóng góp sẽ phụ thuộc vào nguồn cung và nguồn cầu. Nguồn cung chính là Đảng, cụ thể hơn là đảng cung cấp bao nhiêu lợi ích cần thiết cho người mua, có đủ đáp ứng nhu cầu của người cần hay không? Còn nguồn cầu chính là những người sẵn sàng đóng góp lượng tiền cho đảng để có được lợi ích chính trị, nói nôm na ra là mua lợi ích chính trị. Từ 2 yếu tố cung và cầu sẽ sản sinh ra mối quan hệ hàng hóa thị trường là cung – cầu, tất nhiên là lượng tiền đóng góp cho đảng nó sẽ biến thiên theo mối quan hệ “cung – cầu” này. Sẽ có 03 trường hợp như sau:
Trường hợp 1, cung lớn hơn cầu, điều đó có nghĩa là số lượng cơ hội chính trị, lợi ích chính trị mà đảng đưa ra nhiều hơn số lượng người sẵn sàng dùng tiền đóng góp (mua) thì một điều tất yếu sẽ xảy ra là giá thành sản phẩm sẽ thấp xuống, có nghĩa là thay vì bỏ một lượng tiền là A để mua cùng một lợi ích chính trị là B thì khi cung lớn hơn, người đóng góp sẽ chỉ cần dùng một lượng tiền là A- để có được cùng một lợi ích chính trị như nhau là B.
Trường hợp thứ hai là cung nhỏ hơn cầu, có nghĩa là cơ hội để có một lợi ích chính trị nào đó sẽ ít hơn trước, trong khi đó có nhiều người sẵn sàng đóng góp cho đảng để có cùng một lợi ích chính trị không thay đổi. Trong trường hợp này, cơ hội chính trị hay lợi ích chính trị sẽ ít, và dần trở nên khan hiếm, một khi khan hiếm thì bao giờ nó cũng quý và giá cũng cao hơn nhiều. Do đó, người đóng góp muốn có cùng một lợi ích chính trị không đổi là B thì thay vì bỏ ra một lượng tiền A nào đó để mua thì nay người đó phải dùng một lượng tiền A+ để có cùng lợi ích chính trị là B (không đổi)
Trường hợp thứ 3 là cung bằng cầu, thì rõ ràng là thuận mua vừa bán, cả hai bên đều cảm thấy hài lòng và đều đạt được lợi ích của mình. Người đóng góp đơn thuần chỉ dùng với một lượng tiền A để có được lợi ích chính trị B, chứ không phải như hai trường hợp kia là A- và A+, còn về khía cạnh đảng cũng sẽ chỉ giữ nguyên số lượng lợi ích chính trị đưa ra là B, chứ không phải là B- hay B+ so với hai trường hợp trước đó.
Như vậy, từ việc xem xét  2 khía cạnh như trên, ta có thể khái quát các yếu tố ảnh hưởng đến lượng tiền mà một người đóng góp cho đảng như sau:
Thứ nhất, số lượng tiền đóng góp phụ thuộc vào tính chủ thể của người đóng góp như tính tư lợi và tính duy lý của người đóng góp, họ sẽ cân nhắc số tiền đóng góp có phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của bản thân hay không, đồng thời cũng cân nhắc xem với lượng tiền bỏ ra để có được một lợi ích chính trị nào đó có phù hợp hay đã là sự lựa chọn tối ưu nhất chưa, trước khi đóng góp tiền cho đảng. Một số đặc điểm khác của tính chủ thể cũng ảnh hưởng đến lượng tiền đóng góp cho đảng đó là tâm lý, tính cách hay tính đạo đức, tính đạo đức sẽ xem xét họ tự nguyện đóng góp đến mức độ nào, mà điều này thường xuất phát từ cái tâm muốn đóng góp, muốn cống hiến cho xã hội, cho tổ quốc của người đóng góp.
Thứ hai, lượng tiền đóng góp nó cũng phụ thuộc vào tính chủ thể của đảng, có nghĩa là Đảng sẽ mở ra cơ hội hay cung cấp lợi ích chính trị cho người đóng góp ở mức độ nào? Có làm cho người đóng góp cảm thấy được tôn vinh hay có được mối quan hệ chính trị nào đó hay không? Hay họ sẽ có được hợp đồng kinh tế nào hay không?...đồng thời người đóng góp cũng sẽ xem xét tới tính hiệu quả việc đảng sử dụng lượng tiền đó như thế nào, có xứng đáng với sự kì vọng của họ hay không?
Thứ ba, lượng tiền đóng góp cho đảng còn phụ thuộc vào mức độ cạnh tranh trên thị trường, chính là phụ thuộc vào mối quan hệ giữa lợi ích chính trị mà đảng đưa ra với lợi ích của người đóng góp ở mức độ nào? Trong bối cảnh nào? Hoàn cảnh nào? Như ta đã phân tích ở trên, trong trường hợp có nhiều cơ hội chính trị thì lượng tiền đóng góp sẽ giảm, tức là chỉ cần lượng tiền B- để có cùng một lợi ích chính trị A, nếu khan hiếm cơ hội hay lợi ích chính trị thì cần phải đóng góp lượng tiền B+ để có cùng lợi ích chính trị A.
Thứ tư, ngoài ba yếu tố cơ bản trên, lượng tiền đóng góp cho đảng còn phụ thuộc vào một số yếu tố như tính bắt buộc về mặt chính trị, tính cưỡng chế, phụ thuộc vào đặc trưng văn hóa chính trị, truyền thống của mỗi dân tộc, của mỗi người ở địa phương nó cũng chi phối tới lượng tiền người đó sẵn sàng đóng góp cho đảng
BCT

 Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân.

Monday, January 15, 2018

THẾ HỆ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ
THẾ HỆ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ
Đảng Cộng sản Liên Xô (tiếng Nga: Коммунистическая партия Советского Союза, КПСС) là tổ chức chính trị cầm quyền và chính đảng hợp pháp duy nhất tại Liên Xô (cho tới khi nó bị cấm sau Cuộc đảo chính Xô viết năm 1991) và là một trong những tổ chức cộng sản lớn nhất thế giới.
Ban đầu đảng được tách ra từ Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (thành lập vào tháng 3, năm 1898) vào năm 1912 với tên gọi Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (bolshevik). Tại Đại hội VII (1918), sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công, theo đề nghị của Lenin, Đảng mang tên Đảng Cộng sản Nga (bolshevik). Tại đại hội khóa XIV năm 1925, đảng có tên là Đảng Cộng sản toàn Liên bang. Từ Đại hội khóa XIX năm 1952 trở đi, đảng có tên là Đảng Cộng sản Liên Xô.
Đảng Cộng sản Liên Xô theo chủ nghĩa cộng sản khoa học, Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận cho hoạt động của Đảng. Đảng đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Nga tiến hành cuộc Cách mạng dân chủ tư sản những năm 1905 - 1907 và Cách mạng tháng 2 năm 1917, lật đổ chế độ chuyên chế Nga hoàng; giành thắng lợi cho cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 năm 1917, thành lập Liên bang Xô viết – nhà nước của nhiều dân tộc (1922). Nguyên tắc hoạt động cơ bản và xuyên suốt quá trình lãnh đạo của Đảng là “Tập trung dân chủ”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, nhân dân Xô viết đã chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại (1941 – 1945), sau đó tiếp tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng cũng là động lực của Quốc tế cộng sản, duy trì các liên kết tổ chức và hỗ trợ các phong trào cộng sản ở Đông Âu, châu Á và châu Phi.
Đảng Cộng sản Liên Xô lấy nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc hoạt động cơ bản, chủ đạo cơ bản của đảng, đề cao tính lãnh đạo tập thể, nhưng đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của đảng là vai trò của thủ lĩnh chính trị - người đứng đầu Đảng cộng sản. Như Lenin đã khẳng định “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hang ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.
Trong thời gian cầm quyền hơn 70 năm của mình, Đảng đã trải qua nhiều thế hệ lãnh đạo chính như Lê nin, Stalin, Khrushchev,…Trong quá trình chuyển giao quyền lực giữa các thế hệ còn xen kẽ sự kiểm soát hay nắm chính quyền của một số nhà lãnh đạo chính trị như Bí thư Đảng Cộng sản, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Malenkov; Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô Andropov hay Chernenko cầm quyền vỏn vẹn trong năm 1985. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu đề cập đến những nhà lãnh đạo chính, có thời gian cầm quyền khá dài và ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị của Liên Xô là Vladimir Iliych Lenin, Iosif Vissarionovich Stalin, Nikita Sergeyevich Khrushchov, Leonid Ilyich Brezhnev, Mikhail Sergeyevich Gorbachov.
1. Vladimir Ilyich Lenin
Lịch sử hơn 100 năm qua đã chứng minh, chính Đảng của giai cấp công nhân trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền cần phải có một đội ngũ lãnh đạo kiên trì và không ngừng phát triển chủ nghĩa Marx, đồng thời phải có tài tổ chức, vận động và lãnh đạo. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng phải có một đội ngũ lãnh đạo kiên trì và phát triển Chủ nghĩa Marx, kiên trì định hướng XHCN, kiên trì đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng. Trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, Lenin là tấm gương về lãnh tụ.

Vladimir Ilyich Lenin sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870, mất ngày 21 tháng 1 năm 1924; là một lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga, là người nối tiếp và phát triển học thuyết của Karl Marx và Friedrich Engels. Ông được tạp chí Time coi là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất đến lịch sử thế giới.
Lenin tham gia cách mạng từ khi còn trẻ, trong quá trình đi tìm chân lý, Người đã nhiều lần bị bắt, bị lưu đầy, sau đó lưu vong ở nước ngoài. Trải nghiệm cách mạng gian khổ đã khẳng định quyết tâm, ý chí của Người quyết lật đổ chế độ chuyên chế Sa hoàng, phấn đấu không mệt mỏi cho lý tưởng Cộng sản. Lenin kiên định tin theo và theo đuổi chủ nghĩa cộng sản, điều này gắn chặt với quá trình không ngừng học tập và nghiên cứu Chủ nghĩa Marx của Lenin, giúp Người có sự quan sát và dự cảm sâu sắc về đặc trưng tình thế cách mạng và xu thế phát triển của thời đại bấy giờ. Sau Cách mạng Tháng Hai năm 1917, ở nước Nga có hai chính quyền cùng tồn tại. Một là chính quyền Xô Viết đại diện cho công nhân, binh sĩ. Hai là chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản. Khi đó Lenin đang ở nước ngoài. Người kiên quyết thực hiện chủ trương: thành quả cách mạng mà giai cấp công nhân giành được không thể giao lại cho giai cấp tư sản, và Đảng Bolshevik cần giành lấy chính quyền. Trong khi đó, một số lãnh đạo trong Đảng Bolshevik lại không đồng ý với lập trường của Lenin. Nhóm Kamenev cho rằng, Đảng Bolshevik chưa trưởng thành đến độ xây dựng được chuyên chính vô sản, bởi vậy cần phải ủng hộ chính phủ lâm thời.
Tháng 4-1917, Lenin về Nga. Tại Đại hội đại biểu ở Petrograd, Lenin trình bày Luận cương tháng Tư, trong đó đưa ra quyết sách chuyển từ giai đoạn I là cách mạng dân chủ tư sản sang giai đoạn II là cách mạng XHCN. Nhóm Kamenev và Zinoviev phản đối chủ trương của Lenin. Nhiều người trong Đảng lúc đầu không hiểu ý đồ chiến lược trong Luận cương tháng Tư.
Ngày 21-4-1917, Ủy ban Petrograd của Đảng Bolshevik thảo luận Luận cương của Lenin. Molotov kể lại trong hồi ký: Tôi chưa bao giờ phản đối Lenin, nhưng cho dù là tôi hay bất kì ai đó luôn sát cánh bên Lenin đều không hiểu rõ ngay ý tứ của Người. Tất cả những người Bolshevik khi đó đều nói về cách mạng dân chủ tư sản, nhưng Lenin lại nói về cách mạng XHCN. Khi đại đa số các đồng chí trong Đảng vẫn chưa lĩnh hội được chiến lược do mình nêu ra, Lenin đã hết sức kiên nhẫn, nhiệt tình trình bày một cách sâu sắc, căn cứ vào tính khách quan, mục tiêu chiến lược và sách lược, phản bác quan điểm sai lầm của người phản đối. Qua cuộc luận chiến, các đồng chí nhất thời chưa hiểu ra, đã thay đổi thái độ. Cuối cùng, Luận cương tháng Tư của Lenin đã được toàn Đảng chấp nhận, để chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng XHCN.
Trong Đảng Bolshevik, uy tín của Lenin cao hơn rất nhiều người khác, song Người luôn duy trì nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phát huy trí tuệ tập thể và sức mạnh tập thể. Năm 1921, Lenin đã viết thư cho Phó ủy viên Trung ương phụ trách ngoại giao của Liên Xô: “Đồng chí đã lặp lại không dưới một lần rằng, Trung ương chính là tôi, nhưng như thế là đồng chí đã nhầm. Đồng chí tuyệt đối không nên viết ra những lời như vậy!”. Dưới thời Lenin, Trung ương Đảng do Người lãnh đạo là tổ chức của những nhà chính trị có niềm tin mãnh liệt vào chủ nghĩa cộng sản. Volovsky - nhà cách mạng Nga cùng thời với Lenin - đánh giá về Lenin như sau: “Ông rất giỏi trong việc tập trung kinh nghiệm và tri thức của từng người giống như tiêu điểm của thấu kính vậy, đồng thời biến chúng thành tư tưởng chung, khẩu hiệu chung trong phòng thí nghiệm trí tuệ phong phú của mình”.
Sau khi Lenin mất, ông vẫn được coi là vị anh dùng lớn nhất của nhân dân Liên Xô, Lăng của ông đã được đặt trước Quảng trường đỏ, trước cung điện Kremlin để tỏ rõ sự thành kính đối với công lao của ông. Lenin được xem là một nhà dân tộc chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa quốc tế Nga, luôn khao khát xây dựng một nước Nga hiện đại và hùng mạnh, khát khao nhân dân Nga được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nhà ngoại giao nổi tiếng của Liên Xô đánh giá về ông thật sâu sắc và chân thật “Có những cá nhân - hiếm thấy trong lịch sử loài người - là sản phẩm của một chuyển biến lớn lao đã chín muồi, đã tô đẹp cho cả một thời đại. Trong số những người vĩ đại về tinh thần và ý chí đó là Vladimir Ilich Lenin... Như ở một tiêu điểm, Người đã tập hợp vào trong mình tất cả những cái gì của Cách mạng là nghị lực, là hùng mạnh, không ủy mị trong phá bỏ cái cũ và rất kiên quyết trong xây dựng cái mới”.
2. Iosif Vissarionovich Stalin
Sau khi Lenin qua đời, Trung ương Đảng cần một người chèo lái mới, và trong các ứng cử viên có Trosky, Bukharin, Zinoviev, Stalin. Trosky không có một cương lĩnh hoàn chỉnh về xây dựng chủ nghĩa xã hội, thậm chí ông còn cho rằng chủ nghĩa xã hội không thể xây dựng thành công ở Liên Xô. Bukharin có một hệ thống phương án và chương trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng lại thiếu khả năng lãnh đạo. Zinoviev không thật sự nổi bật trên cả hai phương diện lý luận và tổ chức.

Iosif Vissarionovich Stalin  sinh ngày 21 tháng 12 năm 1879  mất ngày 5 tháng 3 năm 1953. Ông  là lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920 cho đến khi qua đời năm 1953. Stalin tham gia cách mạng rất sớm; từ năm 1902 đến năm 1913, từng tám lần bị bắt, bảy lần bị lưu đày, sáu lần trốn thoát khi bị lưu đày. Cuộc đấu tranh đã tôi luyện nên tính cách kiên cường, niềm tin chính trị kiên định và ý chí thép, năng lực tổ chức và khả năng vận dụng tổ chức hơn hẳn người khác. Từ lúc tham gia cách mạng cho đến khi qua đời, niềm tin cách mạng của ông không hề lung lay. Trong suốt thời gian cầm quyền, điểm xuất phát và điểm đích của ông đều vì sự lớn mạnh của đất nước, vì sự sung túc của nhân dân.
Uy tín của Stalin ngày càng tăng cao, quyền quyết sách tối cao trong Đảng dần dần tập trung vào tay ông. Mặc dù Stalin cho rằng sùng bái cá nhân là có hại, thậm chí không thể tha thứ, thậm chí ông nhiều lần tỏ rõ căm ghét sự sùng bái dành cho ông, nhưng trong sinh hoạt chính trị của Đảng và Nhà nước, có lúc ông quá tự tin vào trí tuệ của mình, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Đối với những người không cùng ý kiến trong tập thể lãnh đạo, có lúc Stalin dùng “bàn tay sắt”, thậm chí đã sử dụng phương thức đấu tranh tàn khốc. Kết quả là nhìn bề ngoài nội bộ Đảng có vẻ không có mâu thuẫn, mọi người đồng thuận, song nguyên tắc lãnh đạo tập thể đã bị vi phạm. Nghị quyết được nhất trí thông qua, song trên thực tế đã biến thành phục tùng ý chí của cá nhân lãnh tụ.
Mặc dù có những khuyết điểm nhưng không thể phủ nhận được đóng góp to lớn của Stalin đối với nhân dân Liên Xô và Đảng Cộng sản Liên Xô. Nếu không có sự lãnh đạo của Stalin thì Liên Xô khó có thể vượt qua được cuộc chiến tranh thế giới thứ II khốc liệt và tàn bạo nhất trong lịch sử. Kỷ niệm 80 năm ngày sinh của Stalin, Thủ tướng Anh khi đó là Churchill, phát biểu ý kiến tại Hạ viện, đã đánh giá về Stalin: “Trong những năm tháng thử thách ác liệt, chính Stalin - vị Thống soái thiên tài, kiên cường, bất khuất đã lãnh đạo đất nước mình. Đây là niềm hạnh phúc lớn lao của nước Nga. Stalin là nhân vật kiệt xuất nhất. Ông đã sống cuộc đời mình trong những năm tháng phức tạp, khó lường, khắc nghiệt, tàn khốc. Ông đã để lại cho thời đại chúng ta những ấn tượng đáng kính. Lịch sử và nhân dân sẽ không bao giờ quên một người như thế”.
3. Nikita Sergeyevich Khrushchyov
Sau khi Stalin qua đời, Khrushchev là người kế nhiệm Joseph Stalin lãnh đạo Liên bang Xô Viết từ năm 1955 tới 1964. Nhiệm kỳ của ông trải qua cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Nikita Sergeyevich Khrushchev sinh năm 1894 trong một gia đình nghèo khó ở miền tây nam nước Nga. Ông gần như không được đi học. Ông gia nhập Đảng Bolshevik năm 1918 và chiến đấu trong Hồng Quân trong cuộc Nội chiến Nga. Năm 1929, Khrushchev chuyển đến Moskva để tham gia Học viện Công nghiệp Stalin. Năm 1931, ông bắt đầu làm việc cho Đảng Cộng sản, dần thăng tiến qua các cấp bậc để trở thành bí thư thứ nhất của Đảng bộ thành phố Moskva năm 1938. Năm sau đó ông trở thành ủy viên Bộ chính trị – cơ quan ra quyết định tối cao của Đảng Cộng sản. Trong Thế chiến thứ hai, Khrushchev đảm nhiệm chức vụ chính ủy của quân đội.

Tháng 3/1953, Stalin qua đời. Không lâu sau đó Khrushchev trở thành tổng bí thư đảng, tuy nhiên ông cũng phải mất vài năm để củng cố địa vị của mình. Tháng 2/1956, ông trình bày một bài diễn văn bí mật tại Đại hội Đảng lần thứ 20 nhằm lên án Stalin. Sự việc này khiến Đảng Cộng sản và cả phương Tây dậy sóng, mặc dù Khrushchev không nhắc đến vai trò của mình trong chiến dịch khủng bố của Stalin.
Khrushchev tham gia cách mạng, gia nhập đảng Bolshevik, cũng từng có tình cảm trong sáng với cách mạng nhưng lại thiếu tu dưỡng về chủ nghĩa Marx. Molotov đã đánh giá về Khrushchev: “Ông ấy chưa từng mặn mà với những khái niệm như thế nào là chủ nghĩa Lenin, thế nào là chủ nghĩa Marx và cũng chưa từng nghĩ đến. Ông ta bế tắc về lý luận, chính vì vậy ông ta đi ngược lại với học thuyết về nhà nước và học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx”.
Tại Đại hội 22, ông ta đã nêu ra lý thuyết sai lầm “Nhà nước toàn dân”, “Đảng toàn dân”. Cương lĩnh mà ông ta ra sức chủ trương thông qua tại Đại hội đã hủy bỏ cốt lõi của Chủ nghĩa Marx là chuyên chính vô sản. Ông ta cảnh báo mọi người không được hấp tấp, nhưng ông ta lại đẩy sự hấp tấp đến mức cực đoan, tuyên bố rằng “Liên Xô về cơ bản phải xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản trong vòng 20 năm”. Chủ nghĩa cộng sản của ông ta chẳng qua chỉ là khoai tây cộng với thịt bò mà thôi”.
Bắt đầu từ thời Khrushchev, Đảng Cộng sản Liên Xô dần dần đi xa rời một số nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Marx, khiến Liên Xô bắt đầu chệch hướng, tạo mầm mống cho sự sụp đổ. Khrushchev phê phán tệ sùng bái cá nhân, chủ trương xét lại các sai lầm của Stalin, nhưng ông ta là một phần tử hai mặt, nhiều mưu mô, tham vọng. Tháng 3-1939, trong 20 phút phát biểu ý kiến tại Đại hội Đảng lần thứ 8, ông ta đã 32 lần ca tụng Stalin là thiên tài, người thầy, vị lãnh tụ vĩ đại nhất của nhân loại, vị tướng bách chiến, bách thắng và là… cha đẻ của mình...
Hơn mười năm sau, chính Khrushchev lại là người nguyền rủa Stalin là hung thủ, cường đạo, tên độc tài lớn nhất trong lịch sử nước Nga... Ông ta trút mọi ngôn từ dơ dáy lên Stalin, phủ định công lao của Stalin với lịch sử và nhân loại. Nguyền rủa của ông ta với Stalin thực chất là sự lăng mạ nhân dân và Đảng Cộng sản Liên Xô, phủ định một số nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Marx - Lenin, chủ nghĩa xã hội. Khrushchev phản đối sùng bái cá nhân nhưng chính ông ta lại ra sức sùng bái cá nhân.
Khi giải quyết những vấn đề trọng đại liên quan vận mệnh của Đảng và đất nước, Khrushchev thiếu tư duy tỉnh táo và sự suy xét sâu xa, thường xuất phát từ ý muốn chủ quan, bồng bột nhất thời, thậm chí dùng biện pháp mạo hiểm cấp tiến để đạt mục đích. Năm 1961, Khrushchev tuyên bố tại Đại hội 22: “Liên Xô đã bước vào thời kỳ triển khai toàn diện công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, sẽ cơ bản xây dựng xong xã hội cộng sản trong vòng 20 năm”. Chủ nghĩa cộng sản mà Khrushchev đề cập không phải là lý luận khoa học của chủ nghĩa Marx, và hoàn toàn xa rời tình hình Liên Xô lúc bấy giờ. Đến khi Khrushchev bị hạ bệ, cái gọi là chủ nghĩa cộng sản của ông ta vẫn chỉ là ảo ảnh.
Ngày 14-10-1964, Khrushchev từ nơi nghỉ về Moscow chủ trì Hội nghị Đoàn chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Tại Hội nghị, các thành viên trong Đoàn chủ tịch đã chỉ trích, phê phán những sai lầm của Khrushchev trong chính sách đối nội, đối ngoại và ép ông ta tự nguyện về hưu. Khrushchev buộc phải ký vào văn bản từ chức. Nhà cải cách thô lỗ không có tố chất của một lãnh tụ đó đã bị hạ bệ, mãi cho đến khi qua đời ông ta vẫn không hiểu nguyên cớ do đâu. Cuối năm 1964 ông buộc phải từ chức về nghỉ dưỡng, đến ngày 11 tháng 9 năm 1971 Khrushchev qua đời tại Moskva.
4. Leonid Ilyich Brezhnev
Gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1931, Brezhnev được lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev bảo trợ và là cấp phó của Khrushchev cho tới đầu những năm 1960. Tuy nhiên, đến năm 1964, Brezhnev tham gia vào một cuộc đảo chính trong Đảng để hạ bệ Khrushchev và sau đó Brezhnev lên nắm giữ chức vụ Tổng Bí thư thay cho Khrushchev. Ban đầu, Brezhnev chia sẻ quyền lực với Aleksey Kosygin, người kế nhiệm chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tức thủ tướng) Liên Xô thay cho Khrushchev.Tuy nhiên, Brezhnev dần tỏ ra là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ và nổi lên như một nhân vật chủ chốt trong chính trường Liên Xô.

Leonid Ilyich Brezhnev (1906 – 1982) xuất thân từ một gia đình công nhân ở Ukraine. Thời Stalin, sau khi học xong, Brezhnev làm quản lý kỹ thuật, rồi trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp. Trong chiến tranh Vệ quốc, Brezhnev làm lãnh đạo trong quân đội.
Sau chiến tranh, ông liên tục giữ cương vị lãnh đạo Đảng tại địa phương. Có thể nói, Brezhnev đã chấm dứt sự hỗn loạn từ những cải cách thô thiển, sai lầm dưới thời Khrushchev. Có người đánh giá Brezhnev là một nhân tài làm việc theo nguyên tắc. Cũng có người cho rằng, Brezhnev xử lý công việc khá chắc chắn nên mới duy trì được sự ổn định của Liên Xô trong 18 năm. Thời kỳ Brezhnev là thời kỳ ổn định hiếm có trong lịch sử Liên Xô. Trong 18 năm, kinh tế Liên Xô có sự phát triển nhất định, xã hội tương đối ổn định, đời sống người dân được nâng cao. Nhưng trong thời kỳ này cũng xuất hiện không ít hiện tượng tiêu cực. Đặc biệt cuối đời Brezhnev, lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô càng ngày càng xa rời sự thay đổi, phát triển của thời đại, xa rời yêu cầu của quần chúng nhân dân. Trong tư tưởng và hành động, họ tỏ ra bảo thủ, cứng nhắc, duy trì hiện trạng theo kiểu tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại, thiếu ý chí cách mạng tiến công. Năm năm cuối cùng dưới thời lãnh đạo của Brezhnev được đánh dấu bằng cuộc xâm lược và chiếm đóng Afghanistan tốn kém của Liên Xô và sự trở lại của những căng thẳng Chiến tranh Lạnh. Leonid Brezhnev qua đời năm 1982, kế nhiệm ông là Tổng Bí thư Yuri Andropov.
5. Mikhail Sergeyevich Gorbachyov
Sau khi Brezhnev qua đời, Đảng CS Liên Xô trải qua thời kỳ quá độ tạm thời dưới sự lãnh đạo của Andropov và Chernenko. Đến tháng 3-1985, quyền lãnh đạo Đảng CS Liên Xô chuyển vào tay thế hệ lãnh đạo thứ năm do Gorbachev đứng đầu.

Mikhail Sergeyevich Gorbachyov (thường được Anh hoá thành Gorbachev) sinh ngày 2 tháng 3 năm 1931, từng là lãnh đạo Liên bang Xô viết từ năm 1985 tới 1991. Những nỗ lực thực hiện cải cách của ông giúp chấm dứt Chiến tranh Lạnh nhờ vậy mà ông được trao Giải Nobel Hoà bình năm 1990, nhưng sự lãnh đạo của ông cũng góp phần làm sụp đổ Đảng Cộng sản Liên Xô (CPSU) và gây ra sự tan rã của Liên bang Xô viết.
Gorbachev sinh ra trong một gia đình nông dân ở vùng nông thôn Stavropol. Ông ta tốt nghiệp đại học ở Moscow. Thời trẻ, khi Gorbachev hình thành thế giới quan, cũng là thời kỳ Khrushchev phủ định hoàn toàn Stalin, phủ định lịch sử của Đảng, chủ trương Đảng toàn dân và Nhà nước toàn dân. Đối với Gorbachev, điều này để lại một ấn tượng làm lung lay, thậm chí sụp đổ niềm tin vào lý tưởng Cộng sản. Tháng 3-2001, trả lời phỏng vấn của Đài Truyền hình Ngọn hải đăng Nga, Gorbachev nói: “Chúng tôi là những đứa con của Đại hội 20 Đảng CS Liên Xô. Lịch sử Liên Xô những năm 60 đã ảnh hưởng rất lớn tới chúng tôi. Thời trẻ chúng tôi tin theo Đảng, trung thành gia nhập Đảng, nhưng sau Đại hội 20, tư tưởng của chúng tôi bắt đầu có sự thay đổi”. Từ năm 1993, trong một năm rưỡi, Gorbachev nhiều lần nói chuyện với nhà hoạt động xã hội Nhật Bản Daisaku Ikeda. Họ cùng xuất bản cuốn sách Đối thoại, bài học tinh thần của thế kỷ XX. Trong đó, Gorbachev không chỉ chĩa mũi dùi vào Stalin mà còn chĩa thẳng vào Lenin, chĩa thẳng vào Marx, vào chủ nghĩa Marx - một học thuyết đã chỉ rõ quy luật phát triển của xã hội loài người và được thực tiễn chứng minh là đúng đắn.
Tháng 6-1988, Gorbachev phát biểu ý kiến: “Liên Xô cần thực hiện một nền dân chủ không hạn chế”. Cũng trong tháng đó, cái gọi là Tổ chức Phi chính thức tổ chức mít-tinh tại trung tâm Moscow. Họ giơ biểu ngữ đòi hủy bỏ cơ quan tư pháp và hành pháp của Nhà nước Liên Xô, đòi có quyền tham gia bầu cử vào Xô Viết, công khai chủ trương thực hiện đa đảng. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19 tổ chức tại Moscow ngày 28-6 đến 1-7-1988, Gorbachev đọc báo cáo có nhan đề Tình hình thực hiện nghị quyết Đại hội 27 Đảng CS Liên Xô và nhiệm vụ đi sâu cải tổ. Ông ta đưa ra một loạt phương án cải tổ với mục tiêu xây dựng mô hình mới là “CNXH dân chủ nhân đạo”. Đây thực chất là sự phủ nhận triệt để lý luận cơ bản chủ nghĩa Marx, áp dụng chế độ chính trị của tư bản phương Tây; thực hiện đa đảng qua cái gọi là phân chia lại quan hệ quyền lực giữa Đảng với Xô Viết; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng CS Liên Xô với tư cách là Đảng cầm quyền, làm lung lay nền tảng giai cấp và nền tảng xã hội của Đảng. Sau Đại hội này, tính công khai không hạn chế và dân chủ kiểu phương Tây đã nhanh chóng tạo ra một loạt cái gọi là các tổ chức độc lập trong đời sống chính trị Liên Xô.
Ngày 28-12-1987, bài xã luận trên báo Sự thật cho biết: Liên Xô khi đó có trên 30.000 tổ chức đoàn thể phi chính thức. Những tổ chức này ngang nhiên tuyên truyền chống Cộng, hô hào thành lập Đảng đối lập và công đoàn độc lập. Ngày 28-6-1988, diễn ra Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19 Đảng CS Liên Xô và Hội nghị này trở thành bước ngoặt cơ bản thay đổi chế độ chính trị của Liên Xô. Trước Hội nghị 19, Đảng CS Liên Xô là hạt nhân lãnh đạo của đất nước, Bộ Chính trị là cơ quan quyết sách tối cao, Ban Bí thư giúp Bộ Chính trị xử lý công tác chính trị, tổ chức hằng ngày. Sau Hội nghị 19, bộ máy lãnh đạo Liên Xô tiến hành cải tổ, giải tán 23 ban trước đây trực thuộc T.Ư Đảng. Các cuộc họp của Bộ Chính trị ít dần, thậm chí mấy tháng không họp. Bộ máy tối cao của Nhà nước cũng khởi động cơ chế phân quyền nhằm làm suy yếu và để tiến tới phủ nhận vai trò của Đảng. Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền kiểm soát tình hình. Ngày 25-5-1989, Liên Xô tổ chức Đại hội Đại biểu nhân dân lần thứ nhất, thực hiện phương án cải tổ của Gorbachev, một loạt thành viên phe đối lập chính trị trong và ngoài Đảng, tiêu biểu là Yeltsin, được bầu làm đại biểu nhân dân Liên Xô.
Tại Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô lần thứ nhất, gần như mỗi thời khắc, mỗi vấn đề đều có sự đấu tranh gay gắt. Hàng triệu công nhân Nga ngồi xem truyền hình trực tiếp. Những gì họ nhìn thấy là một cảnh hỗn loạn. Từ tháng 10 đến tháng 12-1989, Đại hội Đại biểu nhân dân Liên Xô lần thứ hai, các đại biểu của đoàn nghị sĩ khu vực như Sakharov, Popov một lần nữa kêu gọi đưa việc sửa đổi Điều 6 trong Hiến pháp vào chương trình nghị sự. Hội nghị toàn thể T.Ư Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 2-1990 là hội nghị quan trọng của quá trình thực hiện đa đảng. Yeltsin đại diện cho “phe dân chủ” phát biểu: cần phải chuyển chế độ độc đảng sang chế độ đa đảng, đồng thời chuẩn bị phối hợp hành động với các chính đảng khác. Gorbachev hoan nghênh quan điểm này, ông ta nói, cần sửa đổi Hiến pháp Liên Xô, cần hủy bỏ quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trong Hiến pháp.
Ngày 12-3-1990, Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Đại hội đại biểu bất thường lần thứ ba. Đại hội thông qua nghị quyết về lập chức tổng thống Liên Xô và luật bổ sung sửa đổi Hiến pháp Liên Xô. Lời đề tựa, trước hết xóa đi vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đội tiên phong của toàn thể nhân dân, đồng thời nội dung trong Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô cũng bị sửa đổi. Điều này thực chất là xóa bỏ cơ sở pháp lý của việc Đảng Cộng sản Liên Xô cầm quyền suốt 73 năm kể từ sau Cách mạng Tháng Mười. Hiến pháp sửa đổi còn thêm một chương về Tổng thống Liên Xô. Sau đó bầu Gorbachev làm Tổng thống đầu tiên.
Tháng 7-1990, trong Báo cáo đọc tại Đại hội 28, Gorbachev lại ra vẻ mà nói rằng, Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua bầu cử, giành lấy và duy trì vị thế của Đảng cầm quyền... Thực chất là che đậy âm mưu của ông ta muốn phá hủy Đảng Cộng sản Liên Xô. Sau Hội nghị toàn thể T.Ư tháng 2-1990 và Đại hội đại biểu nhân dân bất thường Liên Xô, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đã mất đi sự bảo vệ của Hiến pháp. Trong khi đó, các tổ chức phi chính thức của phe đối lập chưa đăng ký nhưng đã hoạt động có tính chất như chính đảng, lại được bảo đảm của Hiến pháp giống như địa vị của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sau khi lên nắm quyền, Gorbachev cử Yeltsin làm Bí thư thứ nhất Thành ủy Moscow. Để có vốn liếng chính trị, Yeltsin liền mượn danh nghĩa này để công kích tình trạng tham nhũng của tầng lớp đặc quyền, từ đó ra sức công kích các đồng chí kiên trì đường lối đúng đắn trong Đảng. Yeltsin chĩa mũi nhọn vào Ban Chấp hành T.Ư Đảng Cộng sản Liên Xô, nhất là Ligachev - nhân vật thứ hai trong Đảng kiên trì con đường XHCN. Yeltsin kiên trì công kích sự chậm chạp trong tiến trình cải cách của Ban Chấp hành T.Ư Đảng, đồng thời phê phán tác phong làm việc của Ligachev. Tuy nhiên, ông ta đã gặp phải sự phê phán của hầu hết Ủy viên T.Ư Đảng. Sau đó không lâu, Yeltsin bị cách chức Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư thứ nhất Thành ủy Moscow, nhưng Gorbachev vẫn để Yeltsin làm Ủy viên T.Ư Đảng và chuyển sang làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban xây dựng Nhà nước. Ngày 29-5-1990, tại Đại hội đại biểu lần thứ nhất Liên bang Nga, với 535 phiếu tán thành, 502 phiếu chống, Yeltsin trúng cử chức Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao Liên bang Nga, với kết quả nhiều hơn bốn phiếu so với số phiếu luật định. Từ đó ông ta giành được quyền lực cao nhất.
Tháng 7-1990, Yeltsin tuyên bố ra khỏi Đảng. Ngày 9-6-1991, Liên bang Nga tổ chức tổng tuyển cử tổng thống lần đầu tiên, Yeltsin đã đánh bại ứng cử viên Bacatin do Gorbachev đề cử, trúng cử chức Tổng thống Liên bang Nga. Một tháng 8 ngày sau, tức ngày 20-7-1991, Yeltsin ban bố sắc lệnh phi đảng hóa và tuyên bố nghiêm cấm hoạt động của các chính đảng trong cơ quan nhà nước các cấp cũng như các đoàn thể quần chúng và doanh nghiệp cơ sở, tức là chĩa thẳng mũi dùi vào Đảng Cộng sản Liên Xô. Ông ta đã giáng một đòn cuối cùng vào sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô và sự giải thế của Liên Xô.
Tổng hợp BCT

 Tài liệu tham khảo

Sunday, January 14, 2018

CÁC KỲ ĐẠI HỘI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng ta đã trải qua 12 lần Đại hội đại biểu toàn quốc. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc son lịch sử ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam. Tất cả đều bắt nguồn sâu xa từ việc Đảng ta vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và được thể hiện ở đường lối chính trị do các Đại hội vạch ra trong mỗi giai đoạn cách mạng.

1. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ nhất: Diễn ra từ ngày 27 đến 31-3-1935 tại phố Quan Công, Ma Cao, Trung Quốc. Dự Đại hội có 13 đại biểu, đại diện cho các tổ chức cơ sở Đảng trong và ngoài nước. Đại hội đề ra ba nhiệm vụ chủ yếu của Đảng trước mắt là: củng cố và phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng rộng rãi và chống chiến tranh đế quốc. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương gồm 9 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư. Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trí cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc là đại biểu của Đảng bên cạnh Quốc tế cộng sản.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, đánh dấu sự khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước; đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng, thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ hai: Diễn ra từ ngày 11 đến 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 766.000 đảng viên trong Đảng bộ toàn Đông Dương. Đây là Đại hội Đảng được tổ chức lần đầu tiên ở trong nước. Đại hội đã phát triển đường lối kháng chiến và đề ra những chính sách cụ thể để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn và chuẩn bị tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi kháng chiến thành công. Do sự phát triển và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và kháng chiến, Đại hội quyết định xây dựng ở mỗi nước Đông Dương một Đảng Cộng sản riêng. Ở Việt Nam, Đảng lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết,  Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức, một ủy viên dự khuyết; Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.

3. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ ba: Diễn ra từ ngày 5 đến 10-9-1960 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước. Gần 20 đoàn đại biểu đảng và công nhân quốc tế đã đến dự đại hội. Đại hội đã tổng kết 30 năm lãnh đạo của Đảng, nêu lên những bài học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội đã phân tích kỹ những đặc điểm của cách mạng Việt Nam và quyết định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đường lối cách mạng miền Nam nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục giữ cương vị là Chủ tịch Đảng. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

4. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ tư: Diễn ra từ ngày 14 đến 20-12-1976 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trong cả nước. Đến dự đại hội còn có 29 đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và tổ chức quốc tế khác. Đại hội thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976-1980, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng. Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao Động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội còn bổ sung Điều lệ Đảng, thay chức danh Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng bằng chức danh Tổng Bí thư. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên và 3 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư. Đây là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

5. Đại hội Đại biểu Đảng lần thứ năm: Diễn ra từ ngày 27 đến 31-3-1982 tại Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở trong cả nước. Đến dự Đại hội còn có 47 đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và tổ chức quốc tế khác. Đại hội thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm 1981-1985, Báo cáo về công tác xây dựng Đảng. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.


6. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ sáu: Diễn ra từ ngày 15 đến 18-12-1986 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong cả nước. Đến dự Đại hội còn có 32 đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và tổ chức quốc tế khác. Đại hội “khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học”. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết, Bộ chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và một ủy dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư. Đại hội VI được xem là kỳ đại hội của quyết tâm đổi mới, đoàn kết để tiến lên. Đại hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt Nam.

7. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ bảy: Diễn ra từ ngày 24 đến 27-6-1991 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 2 triệu đảng viên trong cả nước. Đến dự Đại hội còn có nhiều đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và tổ chức quốc tế khác. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 146 ủy viên, Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Thành công của Đại hội VII đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, cột mốc mới trong tiến trình cách mạng Việt Nam, là: “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”.

8. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ tám: Diễn ra từ ngày 28-6 đến 1-7-1996 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đại biểu thay mặt cho hơn 2 triệu đảng viên trong cả nước. Tới dự đại hội còn có gần 40 đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và tổ chức quốc tế khác. Đại hội đã thảo luận và thông qua Điều lệ Đảng (sửa đổi) và bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 170 ủy viên, Bộ Chính trị gồm 19 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư. Đại hội VIII của Đảng đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Tại Hội nghị lần thứ 4 (Khoá VIII) Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 22 đến 29-12-1997 tại Hà Nội, đồng chí Lê Khả Phiêu - Ủy viên Thường vụ, Thường trực Bộ Chính trị đã được bầu làm Tổng Bí thư thay cho đồng chí Đỗ Mười.

9. Đại hội đại biểu lần thứ chín: Diễn ra từ ngày 19 đến 22-4-2001 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.168 đại biểu thay mặt cho 2.479.717 đảng viên trong cả nước. Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua các Văn kiện quan trọng và bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 150 ủy viên, Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên, Ban Bí thư gồm 9 thành viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư. Đại hội IX của Đảng là Đại hội của “Trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới”, là Đại hội mở đầu cho một thế kỷ mới, một thiên niên kỷ mới.

10. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ mười: 

Diễn ra từ ngày 18 đến 25-4-2006 tại Hà Nội. Dự đại hội có 1.176 đại biểu, đại diện cho 3,1 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội X đã tổng kết chặng đường 20 năm đổi mới (1986-2006) của đất nước, tiếp tục khẳng định sự nghiệp xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chủ đề của Đại hội là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua các văn kiện quan trọng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 160 ủy viên chính thức, 21 ủy viên dự khuyết, Bộ chính trị gồm 14 ủy viên, Ban Bí thư gồm 8 thành viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư.

11. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ mười một: Diễn ra từ ngày 12 đến 19-1-2011 tại Hà Nội. Dự đại hội có 1.377 đại biểu, đại diện cho hơn 3,6 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội XI đã tổng kết chặng đường 25 năm đổi mới (1986-2011) của đất nước, tiếp tục khẳng định sự nghiệp xây dựng công nghiệp hóa, hiện đai hóa đất nước. Chủ đề của Đại hội là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua các Văn kiện quan trọng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 175 ủy viên chính thức và 25 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên, Ban Bí thư gồm 10 thành viên. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư.

12. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ mười hai: 

Diễn ra từ ngày 20 ngày 28-1-2016 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có hơn 1.500 đại biểu, đại diện cho hơn 4,5 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội XII đã tổng kết chặng đường 30 năm đổi mới (1986-2016) của đất nước, tiếp tục khẳng định sự nghiệp xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời Đại hội cũng kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011-2015) của Đảng và đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, nhiệm kỳ 2016-2020. Chủ đề của Đại hội là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 180 ủy viên chính thức và 20 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 19 ủy viên, Ban Bí thư gồm 3 thành viên. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta nhất trí, đoàn kết, thống nhất vạch ra đường lối chiến lược phát triển đất nước, ổn định chính trị, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước vượt qua giai đoạn quá độ xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”.
Theo tapchicongsan.org.vn
CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nguyên thủ quốc gia của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, người đứng đầu nhà nước Việt Nam về đối nội và đối ngoại, điều hành chính quyền, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang của Việt Nam.
Từ năm 1981 - 1992 chức danh này được gọi là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các Đại biểu Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ tịch nước mới.
Kể từ khi thành lập nước năm 1941 đến nay, Việt Nam đã trai qua các đời Chủ tịch nước như sau:
1. Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh (sinh ngày 19/5/1890 - 2/9/1969) là một nhà cách mạng, người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20, một chiến sĩ cộng sản quốc tế. Ông là người viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian từ năm 1945 - 1969, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong thời gian từ năm 1951 - 1969.

Là một lãnh tụ được nhiều người ngưỡng mộ và tôn sùng, lăng của Người được xây ở Hà Nội, nhiều tượng đài của Bác được đặt ở khắp mọi miền Việt Nam, hình ảnh của Người được nhiều người dân treo trong nhà, đặt trên bàn thờ và được in ở hầu hết mệnh giá đồng tiền Việt Nam. Bác được thờ cúng ở một số đền thờ và chùa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời cũng là một nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp. Người đã được tạp chí Times bình chọn là một trong 100 người ảnh hưởng nhất thế kỷ 20.

2: Huỳnh Thúc Kháng

Huỳnh Thúc Kháng (sinh năm 1876 - 1947), tự Giới Sanh, hiệu Minh Viên là một chí sĩ yêu nước người Việt Nam. Ông là Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1946 - 1947) và Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn từ 31/5 - 2/9/1946 (tạm thay Hồ Chủ tịch sang Pháp vận động ngoại giao), trước đó ông từng giữ chức Viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ thời thuộc Pháp. Nổi tiếng với tài năng, đức độ và lòng yêu nước, người dân Việt Nam thường nhắc đến ông với một tên gọi gần gũi là Cụ Huỳnh.

Cũng có nhiều quan điểm là Cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ giữ chức Quyền chủ tịch nước trong lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đi vắng nên không được xếp vào các đời chủ tịch ở Việt Nam. Tuy nhiên, với tài năng, đức độ của Cụ Huỳnh đã giữ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ổn định trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh đi vắng, vì những đóng góp to lớn của Cụ Huỳnh Thúc Kháng nên tác giả đưa cụ vào hàng ngũ thế hệ lãnh đạo cấp cao nhất của đất nước.

3: Tôn Đức Thắng

Tôn Đức Thắng (sinh năm 1888 - 1980) là một nhà cách mạng, chính khách của Việt Nam. Ông là Chủ tịch nước tiếp theo của Việt Nam (từ năm 1969 - 1980), trước đó ông là Phó Chủ tịch nước (1960 - 1969), Trưởng ban Thường trực Quốc hội Việt Nam (1955 - 1960) tương đương với Chủ tịch Quốc hội bây giờ.

Sau khi kế nhiệm Hồ Chí Minh ông là Chủ tịch nước thứ 2 và cũng là cuối cùng của chính thê Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời là Chủ tịch nước đầu tiên của chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

4: Nguyễn Hữu Thọ


Nguyễn Hữu Thọ (sinh ngày 10/7/1910 - 24/12/1996) là một luật sư, chính khách Việt Nam. Ông là Phó Chủ tịch nước của Việt Nam (1976 - 1980) và Quyền Chủ tịch nước Việt Nam giai đoạn từ 3/1980 - 7/1981, sau đó là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam (1980 - 1992), Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa VII, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1988 - 1994). Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, ông là chủ tịch đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam Việt Nam.

5: Trường Chinh


Trường Chinh (sinh năm 1907 - 1988) là một chính khách Việt Nam. Ông là chủ tịch nước tiếp theo của Việt Nam khi giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam từ năm 1981 - 1987. Ngoài ra ông đã giữ các chức vụ quan trọng khác trong hệ thống chính trị của Việt Nam như Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch Quốc hội khóa V, VI. Ngoài ra ông còn là một nhà thơ với bút danh Sóng Hồng.

6: Võ Chí Công


Võ Chí Công (sinh năm 1912 - 2011) là một chính khách của Việt Nam. Ông là Chủ tịch nước tiếp theo của Việt Nam khi giữ chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam từ năm 1987 - 1992. Trước đó, ông là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Hải sản Việt Nam. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, ông là Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam (1961 - 1975), Phó Chủ tịch Thường trực Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam Việt Nam (1962 - 1976), Chủ tịch Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam (1962 - 1975).

7: Lê Đức Anh


Lê Đức Anh sinh ngày 1/12/1920 là một cựu chính khách và tướng lĩnh quân đội Việt Nam. Ông là Chủ tịch nước Việt Nam từ năm 1992 - 9/1997, đồng thời là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam (1986 - 1987), ông mang quân hàm Đại tướng.

8: Trần Đức Lương


Trần Đức Lương (sinh ngày 5/5/1937 tại xã Phổ Khánh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi), là một chính khách Việt Nam. Ông là Chủ tịch nước của Việt Nam từ tháng 9/1997 - 6/2006, là Ủy viên Bộ Chính trị khóa (khóa VIII, IX) và Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

9: Nguyễn Minh Triết


Nguyễn Minh Triết sinh năm 1942 là một chính khách Việt Nam. Ông giữ chức Chủ tịch nước Việt Nam từ 6/2006 - 7/2011. Trước khi trở thành Chủ tịch nước ông là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, một chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị tại Việt Nam. Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thú X 3/2016, trong danh sách Bộ Chính trị ông đứng thứ 4 sau các ông Nông Đức Mạnh, Lê Hồng Anh và Nguyễn Tấn Dũng.

10: Trương Tấn Sang


Trương Tấn Sang sinh ngày 21/1/1949, là một chính khách Việt Nam. Ông là Chủ tịch nước của Việt Nam từ tháng 7/2011 - 4/2016, ông cũng từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam (khóa IX, X, XI, XIII), ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII, IX, X, XI), Trưởng ban Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương (2011 - 2016), Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X, Trưởng ban Ban Kinh tế Trung ương (2000 - 2006), Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1996 - 2000) và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (1992 - 1996).

11: Trần Đại Quang


Trần Đại Quang (sinh ngày 12/10/1956 tại xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình) là Chủ tịch nước đương nhiệm của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ông xuất thân là tướng lĩnh công an với quân hàm Đại tướng, là Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam (2011 - 2016), Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VIII, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI, XII), Trưởng ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung uơng, Bí thư Đảng ủy Cơ quan Trung ương (2011 - 2016), Trưởng ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2011 - 2016).
Ngày 2/4/2016 ông được Quốc hội bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, ông là đương kim Chủ tịch nước hiện tại của Việt Nam.

 Tổng hợp BCT