Sunday, January 14, 2018

CÁC KỲ ĐẠI HỘI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng ta đã trải qua 12 lần Đại hội đại biểu toàn quốc. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc son lịch sử ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam. Tất cả đều bắt nguồn sâu xa từ việc Đảng ta vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và được thể hiện ở đường lối chính trị do các Đại hội vạch ra trong mỗi giai đoạn cách mạng.

1. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ nhất: Diễn ra từ ngày 27 đến 31-3-1935 tại phố Quan Công, Ma Cao, Trung Quốc. Dự Đại hội có 13 đại biểu, đại diện cho các tổ chức cơ sở Đảng trong và ngoài nước. Đại hội đề ra ba nhiệm vụ chủ yếu của Đảng trước mắt là: củng cố và phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng rộng rãi và chống chiến tranh đế quốc. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương gồm 9 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư. Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trí cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc là đại biểu của Đảng bên cạnh Quốc tế cộng sản.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, đánh dấu sự khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước; đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng, thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ hai: Diễn ra từ ngày 11 đến 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 766.000 đảng viên trong Đảng bộ toàn Đông Dương. Đây là Đại hội Đảng được tổ chức lần đầu tiên ở trong nước. Đại hội đã phát triển đường lối kháng chiến và đề ra những chính sách cụ thể để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn và chuẩn bị tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi kháng chiến thành công. Do sự phát triển và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và kháng chiến, Đại hội quyết định xây dựng ở mỗi nước Đông Dương một Đảng Cộng sản riêng. Ở Việt Nam, Đảng lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết,  Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức, một ủy viên dự khuyết; Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.

3. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ ba: Diễn ra từ ngày 5 đến 10-9-1960 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước. Gần 20 đoàn đại biểu đảng và công nhân quốc tế đã đến dự đại hội. Đại hội đã tổng kết 30 năm lãnh đạo của Đảng, nêu lên những bài học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội đã phân tích kỹ những đặc điểm của cách mạng Việt Nam và quyết định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đường lối cách mạng miền Nam nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục giữ cương vị là Chủ tịch Đảng. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

4. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ tư: Diễn ra từ ngày 14 đến 20-12-1976 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trong cả nước. Đến dự đại hội còn có 29 đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và tổ chức quốc tế khác. Đại hội thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976-1980, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng. Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao Động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội còn bổ sung Điều lệ Đảng, thay chức danh Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng bằng chức danh Tổng Bí thư. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên và 3 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư. Đây là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

5. Đại hội Đại biểu Đảng lần thứ năm: Diễn ra từ ngày 27 đến 31-3-1982 tại Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở trong cả nước. Đến dự Đại hội còn có 47 đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và tổ chức quốc tế khác. Đại hội thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm 1981-1985, Báo cáo về công tác xây dựng Đảng. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.


6. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ sáu: Diễn ra từ ngày 15 đến 18-12-1986 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong cả nước. Đến dự Đại hội còn có 32 đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và tổ chức quốc tế khác. Đại hội “khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học”. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết, Bộ chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và một ủy dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư. Đại hội VI được xem là kỳ đại hội của quyết tâm đổi mới, đoàn kết để tiến lên. Đại hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt Nam.

7. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ bảy: Diễn ra từ ngày 24 đến 27-6-1991 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 2 triệu đảng viên trong cả nước. Đến dự Đại hội còn có nhiều đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và tổ chức quốc tế khác. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 146 ủy viên, Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Thành công của Đại hội VII đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, cột mốc mới trong tiến trình cách mạng Việt Nam, là: “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”.

8. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ tám: Diễn ra từ ngày 28-6 đến 1-7-1996 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đại biểu thay mặt cho hơn 2 triệu đảng viên trong cả nước. Tới dự đại hội còn có gần 40 đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và tổ chức quốc tế khác. Đại hội đã thảo luận và thông qua Điều lệ Đảng (sửa đổi) và bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 170 ủy viên, Bộ Chính trị gồm 19 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư. Đại hội VIII của Đảng đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Tại Hội nghị lần thứ 4 (Khoá VIII) Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 22 đến 29-12-1997 tại Hà Nội, đồng chí Lê Khả Phiêu - Ủy viên Thường vụ, Thường trực Bộ Chính trị đã được bầu làm Tổng Bí thư thay cho đồng chí Đỗ Mười.

9. Đại hội đại biểu lần thứ chín: Diễn ra từ ngày 19 đến 22-4-2001 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.168 đại biểu thay mặt cho 2.479.717 đảng viên trong cả nước. Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua các Văn kiện quan trọng và bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 150 ủy viên, Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên, Ban Bí thư gồm 9 thành viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư. Đại hội IX của Đảng là Đại hội của “Trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới”, là Đại hội mở đầu cho một thế kỷ mới, một thiên niên kỷ mới.

10. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ mười: 

Diễn ra từ ngày 18 đến 25-4-2006 tại Hà Nội. Dự đại hội có 1.176 đại biểu, đại diện cho 3,1 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội X đã tổng kết chặng đường 20 năm đổi mới (1986-2006) của đất nước, tiếp tục khẳng định sự nghiệp xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chủ đề của Đại hội là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua các văn kiện quan trọng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 160 ủy viên chính thức, 21 ủy viên dự khuyết, Bộ chính trị gồm 14 ủy viên, Ban Bí thư gồm 8 thành viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư.

11. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ mười một: Diễn ra từ ngày 12 đến 19-1-2011 tại Hà Nội. Dự đại hội có 1.377 đại biểu, đại diện cho hơn 3,6 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội XI đã tổng kết chặng đường 25 năm đổi mới (1986-2011) của đất nước, tiếp tục khẳng định sự nghiệp xây dựng công nghiệp hóa, hiện đai hóa đất nước. Chủ đề của Đại hội là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua các Văn kiện quan trọng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 175 ủy viên chính thức và 25 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên, Ban Bí thư gồm 10 thành viên. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư.

12. Đại hội đại biểu Đảng lần thứ mười hai: 

Diễn ra từ ngày 20 ngày 28-1-2016 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có hơn 1.500 đại biểu, đại diện cho hơn 4,5 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội XII đã tổng kết chặng đường 30 năm đổi mới (1986-2016) của đất nước, tiếp tục khẳng định sự nghiệp xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời Đại hội cũng kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011-2015) của Đảng và đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, nhiệm kỳ 2016-2020. Chủ đề của Đại hội là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 180 ủy viên chính thức và 20 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 19 ủy viên, Ban Bí thư gồm 3 thành viên. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta nhất trí, đoàn kết, thống nhất vạch ra đường lối chiến lược phát triển đất nước, ổn định chính trị, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước vượt qua giai đoạn quá độ xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”.
Theo tapchicongsan.org.vn
Previous Post
Next Post

post written by:

0 comments: