Sunday, January 28, 2018

Bí ẩn Tiếng đàn Gia Cát Lượng!
Điểu tận cung tàn!

Tiếng đàn Gia Cát Lượng đuổi 15 vạn hùng binh do Tư Mã Ý thống lĩnh đã lưu danh sử sách và để lại muôn vàn ý nghĩa mà đến nay vẫn còn nhiều đàm luận qua tiếng đàn này. Câu chuyện bắt đầu tại một huyện nhỏ Tây Thành, Gia Cát Lượng, Thừa tướng nhà Thục Hán một mình gẩy đàn, đuổi Tư Mã Ý – Phiêu kỵ đại tướng quân nhà Tào Ngụy với 15 vạn hùng binh. Trận chiến qua tiếng đàn này được người sau lưu truyền là ‘Không thành kế’, ‘Gia Cát Tây thành đuổi giặc hung’ và coi đó như một biểu tượng cho sự cơ trí, mẫn tiệp vô song của Gia Cát Khổng Minh.
Gia Cát Lượng gẩy đàn ở Tây Thành
Nhưng trong tiếng đàn hàm chứa những điều bất ngờ?
Bối cảnh diễn ra sự kiện này là khi Gia Cát Lượng thống lĩnh binh mã nước Thục, Bắc phạt lần thứ nhất, nhằm thống nhất thiên hạ, thực hiện di chúc của tiên đế (Lưu Bị) để lại. Quân Thục liên tiếp đại thắng quân Ngụy, bắt sống phò mã nước Ngụy là Hạ Hầu Mậu, đả bại Đô đốc Ngụy quốc Tào Chân, thu nạp danh tướng Khương Duy. Cùng khi đó Mạnh Đạt ở Tân Thành mưu phản biến nhà Ngụy, định cất binh đánh úp Ngụy đế Tào Duệ. Ngụy quốc lâm nguy, Ngụy Đế cấp tốc trọng dụng lại Tư Mã Ý.
Ý nhận lệnh của vua liền đưa binh từ Uyển Thành kéo tới Tân Thành, trong ứng ngoài hợp đánh giết Mạnh Đạt rồi dẫn quân tiếp ứng cho Tào Chân. Tư Mã Ý xuất quân, nhất định đến Nhai Đình, đây là con đường yết hầu. Nhai Đình tuy nhỏ nhưng rất quan trọng, vì đây là con đường vận lương duy nhất của quân Thục, nếu mất Nhai Đình, quân Gia Cát Lượng có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn, vì vậy phải có trọng binh trấn giữ, tức phải có đại tướng kiêu dũng thiện chiến đứng ra gánh vác trách nhiệm nặng nề này.
Bất ngờ Mã Tốc xin đi, khiến cả trướng chết lặng, ai nấy đều sửng sốt. Vì Mã Tốc xưa nay chỉ hiến kế trong trướng, chưa từng rong ruổi xa trường, nên khó mà có thể tin tưởng giao vác trọng nhiệm này. Tuy nhiên, Mã Tốc trong đêm đến trướng của Gia Cát Lượng khóc lóc van xin được vì nước lập công, nguyện dâng sở học một đời để thực hiện nguyện ước này, và lập quân lệnh trạng để đảm bảo – nếu thất thủ sẽ chém cả nhà. Lập quân lệnh trạng trước ba quân – Nếu thất bại sẽ chém cả nhà.
Ngày hôm sau Gia Cát Lượng quyết định sai tiên phong Mã Tốc, phó tướng Vương Bình ra chiếm Nhai Đình bảo vệ sườn cũng là đường vận lương huyết mạch của Thục quân. Thay vì theo lời Vương Bình là lập đồn chiếm giữ cửa ải thì Mã Tốc cậy mình thông hiểu binh pháp đã kéo binh lên đóng trên một quả núi đất, định dồn quân Thục vào chỗ chết, từ đó toàn quân sẽ quyết tử để đại phá quân Ngụy.Đây giống như là kế ‘bội thuỷ nhất chiến’ (bày trận tựa sông) mà Hàn Tín năm xưa đã dùng. Bản chất của trận bội thủy nhất chiến là đưa quân vào chỗ chết để tìm con đường sống, nhưng Mã Tốc đã không hiểu được tình thế, không nắm được lực lượng giữa ta và địch, với lại không nắm rõ địa hình địa thế mà vận dụng chiêu này một cách nên bại vong là điều khó tránh khỏi đối với một người chưa bao giờ ra trận như Mã Tốc. Và tất nhiên là Tư Mã Ý đã nhận ra điểm chết người này của Mã Tốc, ông cho bủa vây núi, rồi chặt đứt đường nước của quân Thục. Thục binh đại loạn. Mã Tốc may nhờ Vương Bình cố chết cứu mới chạy thoát về Hán Trung được.
Về phần Gia Cát Lượng, đường lương bị cắt, vô kế khả thi bèn ra lệnh rút quân. Trước khi rút, ông ra Tây Thành để vận chuyển nốt 20 vạn thạch lương còn lại. Binh sỹ đi theo ngoài bộ tướng Khương Duy với 300 giáp sĩ hộ vệ chỉ còn lại 2000 binh sỹ già yếu. Vận lương Tây Thành chưa xong, Tư Mã Ý đột nhiên kéo đại binh đến. Khói bụi mù trời, Khương Duy kiến nghị nhanh chóng rời bỏ Tây Thành tháo chạy về Thục. Nhưng Gia Cát Lượng cho rằng chạy tất chết không thể nào thoát khỏi thiết kỵ của Tư Mã Ý.
Lượng quyết định đánh cược một phen với trời với số phận của chính mình. Quân Thục mở tung của thành, cắt mấy chục lính làm dân phu, lùa súc vật đi ăn cỏ, và quét cổng thành cho sạch sẽ gọn gàng, bản thân Gia Cát Lượng ôm đàn lên lầu độc tấu chống hùng binh Tư Mã Ý. Ý dẫn quân kéo đến Tây Thành, thấy phong cảnh như vậy lấy làm lạ, đăm chiêu nghe Gia Cát Lượng gẩy đàn một lúc, rồi hạ lệnh đổi tiền quân làm hậu quân nhanh chóng tháo lui.
Tư Mã Chiêu con Tư Mã Ý  hỏi: “Thưa cha, chỉ là mấy sợi dây đàn, có thể truyền thần tới vậy sao chứ?” Ý trả lời: “Tâm loạn, tiếng đàn sẽ rối loạn, tâm tịnh, tiếng đàn sẽ yên tịnh thôi, tâm loạn thì âm loạn, tâm tịnh thì âm sắc. Nghe Gia Cát Lượng đánh đàn, nhìn thấy rõ tâm can hắn, ta nghe được tiếng đàn của Gia Cát Lượng là một vinh hạnh rồi.” Sau đó lập tức truyền lệnh rút quân, tháo lui khỏi Tây Thành.
Phải chăng là Tư Mã Ý vì sợ tiếng đàn, vì sợ quỷ kế của Gia Cát Lượng có mai phục bên trọng mà rút chạy? Đằng sau tiếng đàn đó là gì? Đúng như Gia Cát Lượng thốt lên sau khi Tư Mã Ý lui binh: “Trời xanh cứu ta, Tư Mã Ý thực là hiểu âm luật“. Vậy Tư Mã Ý đã hiểu được gì qua tiếng đàn Gia Cát Lượng gửi gắm tới ông?. Có lẽ qua tiếng đàn (qua âm luật) Gia Cát Lượng đã chuyển đến Tư Mã Ý thông điệp: “Điểu tận cung tàn”, “thỏ khôn hết thì chó săn cũng sẽ bị nấu”, ngụ ý nói rằng nhà Ngụy ba đời liền nghi ngờ, cảnh giác ông. Sở dĩ ông được làm nguyên soái thống lĩnh ba quân là bởi tôi cầm binh nước Thục công phá Ngụy Quốc. Tôi chết rồi, mối lo về Thục quân không còn, Ngụy Đế tất sẽ khiến ông không toàn mạng sống. Xưa nay thỏ khôn chết thì chó săn bị nấu, chim bay cao chết thì cung mạnh bị cho vào bếp, đó là lẽ thường tình. Đúng là Tư Mã Ý thật hiểu Gia Cát Lượng mà Gia Cát cũng thật là am hiểu Tư Mã, nếu họ không đối đầu chiến tuyến thì đúng là tâm giao xưa nay hiếm. Gia Cát hiểu rằng Tư Mã Ý đang là con bài trong tay Tào Duệ, và đang là cái gai trong mắt muốn khử của các vây cánh họ Tào, đồng thời ông cũng hiểu được tham vọng của Tư Mã Ý là muốn đoạt binh lập vương khi thời cơ đến nhưng hiện tại ông chưa xây dựng được các thế lực của mình, nên nếu ông chết thì dòng họ Tư Mã cũng sẽ bị diệt luôn để tránh hiểm họa về sau của Tào Duệ. Về phần mình, Tư Mã Ý cũng biết rằng nếu mình giết Gia Cát thì lưu danh sử sách nhưng đổi lại cả họ Tư Mã sẽ diệt vong, đồng thời tham vọng bá quyền của mình cũng chấm dứt, chi bằng để lại Gia Cát làm bình phong mà sống, chia thiên hạ làm ba, sau này xây dựng được thế lực thì hùng cứ bốn phương vẫn chưa muộn.
Đúng là hai người tâm giao, hai bậc cao nhân, họ giao tiếp với nhau bằng tiếng đàn, một người nghe – một người gảy, điều mà người thường vĩnh viễn không thể nào hiểu nổi, ngay cả Tư Mã Chiêu và cả Khương Duy cũng không hề hay biết tại sao hai nhân vật này lại có cách hành xử ‘lạ lùng’ đến như vậy?! Đứng trước 15 vạn hùng binh, cái chết đến cận kề, kẻ địch quá mạnh,… chỉ nghe tiếng vó ngựa, tiếng la hét, hay tên tướng địch (Tư Mã Ý) thôi là hoàn toàn có thể hồn xiêu phách tán, chứ nói gì đến việc vác đàn lên gảy? Tâm tịnh, ý tịnh, đàn hết bài, truyền được tâm ý, đẩy lui đại địch, giữ được mạng sống. Lấy tĩnh chế động, chính là nguyên lý mà người tu Đạo đều biết. Đó thật là kỳ ảo.
Quả nhiên sau này Khổng Minh Bắc phạt, Tư Mã Ý soái lĩnh Ngụy quân chống lại, dần dần bồi dưỡng thực lực làm nên cuộc đảo chính phế Tào Sảng, nắm giữ binh quyền nước Ngụy. Tài trí Khổng Minh vang danh hậu thế phần nhiều cũng nằm ở những lần đối trận với Tư Mã Ý.
Họ sinh ra là tri kỷ nhưng cũng là đối thủ không cùng đội chung trời. Tiếc thay thời thế không khiến họ trở thành bạn tâm giao. Dùng tiếng đàn khi đối trận để viết lên một giai thoại đẹp nhất thời Tam Quốc, nơi hai nhân vật đỉnh cao về nghệ thuật cầm binh dùng tiếng đàn “truyền thần” mà kể chuyện cho nhau nghe… nghe mà hiểu được người kia ‘nói’ gì thì đó chính là bậc tri kỷ một đời khó gặp.
Cũng qua tiếng đàn Gia Cát đuổi 15 vạn hùng binh của Tư Mã để lại cho ta nhiều bài học ý nghĩa sâu cay đó sao:
Thứ nhất, thắng thua phải biết giữ mình, còn sống là còn cơ hội. Thắng mà mình không giữ được tính mạng, thậm chi là cả họ hàng thì thắng cũng là thua. Nếu Tư Mã giết Gia Cát thì đó là thắng mà lại là thua, và hiển nhiên là sẽ không còn Tư Mã thống nhất thiên hạ lần nữa, lập nên nhà Tấn sau này.
Thứ hai, để lại bài học về dùng người, dụng người không vì tình riêng. Gia Cát lúc đầu cũng không muốn dùng Mã Tốc, nhưng cũng vì một chút yếu lòng mà dẫn đến sự thảm bại đó sao? Điều này cho chúng ta thấy được cái nguy của việc dùng  người thân thích họ hàng, nể tình nể nghĩa trong bộ máy nhà nước hiện nay.
Thứ ba, Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng. Đây là bài học muôn thủa không bao giờ sai. Gia Cát hiểu rằng bỏ chạy cũng không thoát được chi bằng ở lại đối đầu biết đâu còn cơ hội? Thực tình khi ở lại gẩy đàn, Gia Cát đã biết mình hiểu về Tư Mã Ý là con người như thế nào, ông biết đánh vào điểm yếu là tham vọng và nổi sợ bị diệt vong của Tư Mã Ý nên ông mới thoát lên “Tư Mã Ý thật hiểu âm luật”- chính là những lời nhắn nhủ của Gia Cát Lượng.
Tiếng đàn Gia Cát không chỉ đuổi 15 vạn hùng binh Tư Mã Ý, mà còn cứu cả dòng họ Tư Mã để sau này lập nên nhà Tấn bấy giờ. Đúng là hai bậc cao nhân, thật hiểu mình hiểu ta, biết thời biết thế, nên mới xứng lưu danh sử sách, không vì lợi nhỏ trước mắt mà mất nghiệp lớn. Quả đúng là thâm thúy làm sao “Tiếng đàn Gia Cát”!

Tổng hợp BCT

Wednesday, January 24, 2018

Sự học phải như hơi thở
“Khi con muốn có được trí tuệ và sự sáng suốt mãnh liệt như khi con muốn được thở dưới mặt biển ban nãy, con sẽ có được chúng” - Socrates

Ngày ấy có một cậu học trò hăm hở muốn có được trí tuệ và sự sáng suốt. Cậu ta tìm đến Socrates, người thông thái nhất thành Athen để xin chỉ dẫn. Ngưỡng mộ Socrates là một người già dặn và uyên bác, cậu học trò cũng muốn biết làm cách nào ông đạt được sự tinh thông như thế.

Vốn ít lời, Socrates đưa cậu học trò đến bãi biển rồi đi thẳng xuống nước với bộ áo quần còn nguyên trên người. Socrates vẫn thích làm những chuyện kỳ quặc như vậy, nhất là những khi ông muốn làm sáng tỏ một điều gì đó. Cậu học trò thận trọng bước theo Socrates đến khi nước biển lên đến cằm hai người.
Đột nhiên Socrates đến nắm lấy hai vai cậu bé, nhìn thật sâu vào mắt cậu rồi dùng hết sức nhấn đầu cậu bé xuống nước. Cậu bé vùng vẫy dữ dội và khi chỉ còn một khắc nữa thôi tính mạng cậu bé sẽ nguy kịch, Socrates mới chịu buông tay.
Sau khi cố hết sức ngoi nhanh khỏi mặt nước, hớp vội lấy không khí và sặc sụa vì nước biển, cậu bé tức tối nhìn quanh tìm Socrates, không ngờ lại thấy ông đang kiên nhẫn chờ sẵn trên bờ. Lên đến bãi cát, cậu bé giận dữ gào lên:
- “Tại sao ông muốn dìm chết tôi?”
Socrates chậm rãi đáp lại bằng một câu hỏi:
- “Này cậu bé, thế trong lúc cậu suýt chết ngạt dưới biển, cậu đã mong muốn điều gì hơn bất kỳ mọi thứ trên thế gian này?”
Cậu bé suy nghĩ một lúc rồi trả lời theo trực giác:
 - “Tôi muốn thở”.
Socrates nhìn cậu bé rồi ôn tồn nói:
- “Thế đấy, khi con muốn có được trí tuệ và sự sáng suốt mãnh liệt như khi con muốn được thở dưới mặt biển ban nãy, con sẽ có được chúng”.
Ở đời, cái gì cũng có cái giá của nó cả, cái giá của thành công là phải kiên trì, của hạnh phúc là chia sẻ, khỏe mạnh là luyện tập không ngừng, của trí tuệ là phải học hỏi. Vậy nên, chớ có mong điều gì đến một cách dễ dàng, vì những thứ quý giá bao giờ cũng đắt tiền, những gì dễ dãi thì giá cũng rẻ. Kiên trì, chăm chỉ, học tập, rèn luyện bền bỉ đến cùng chúng ta sẽ đạt được ước mơ của mình. Con người nên có một ước mơ và hạnh phúc khi đạt được ước mơ!
BCT

Monday, January 22, 2018

Hộp Pandora và Vali hạt nhân

Trong thần thoại Hy Lạp, sự tích về chiếc hộp Pandora kì bí đã để lại cho nhân gian những điều thú vị và hấp dẫn. Theo truyền thuyết, đó là một chiếc hộp mà nàng Pandora - người phụ nữ đầu tiên đến thế giới loài người. Theo chỉ thị của Zeus, Hephaistos (là vị thần kỹ nghệ) đã tạo ra người phụ nữ đầu tiên bằng đất sét, và đặt tên là Pandora. Thần Zeus cũng nhờ nữ thần Athena (vị thần nghề thủ công mỹ nghệ) trao cho Pandora hơi thở cuộc sống và nhờ nữ thần Aphrodite (là vị thần của tình yêu, sắc đẹp, sự sinh nở và dục vọng) ban cho cô nhan sắc xinh đẹp. 

Khi Prometheus ăn cắp ngọn lửa từ trên thiên thần, Zeus để trả thù đã tặng Pandora cho anh em của Prometheus, (Prometheus có nghĩa là "người biết trước tương lai" là một vị thần khổng lồ, con trai của Iapetus và Themis, anh em của ông là Atlas, Epimetheus và Menoetius. Ông nổi tiếng với trí thông minh và chính ông đã tạo ra loài người và chính ông là người giúp đỡ rất nhiều cho con người lúc đó bằng cách ngụy trang giấu đồ ăn, là người đã ăn cắp ngọn lửa từ thần Zeus và trao nó cho nhân loại. Epimetheus). Mặc dù được người anh em Prometheus trước đó cảnh cáo không được nhận bất cứ món quà nào của thiên thần, vì nó sẽ mang đến đau khổ, nhưng trước sắc đẹp của Pandora, Epimetheus đã xiêu lòng và nhận quà này. Zeus đã tặng Pandora một chiếc hộp làm quà cưới, và dặn dò là không vì bất cứ lý do gì được phép mở chiếc hộp này. Nhưng với sự tò mò của mình, Pandora đã mở chiếc hộp ra và tất cả những gì trong chiếc hộp kì bí đó đã khiến cho tất cả những điều bất hạnh tràn ngập khắp thế gian: thiên tai, bệnh tật, chiến tranh… và chỉ có điều tốt lành duy nhất mà chiếc hộp này mang tới là niềm hy vọng  mang tên Pandora.
Ngày nay cụm từ  “chiếc hộp Pandora” thường dùng để chỉ nguy cơ gây ra một điều không lành, khó mà có thể hàn gắn được. Và điển tích về "chiếc hộp Pandora"  cũng được dùng để chỉ những hành động hoặc sai lầm gây ra hậu quả ngoài tầm kiểm soát mà con người không bao giờ có cơ hội để làm lại hay sửa chữa.

Trong lĩnh vực chính trị, nhiều người cũng ví “Vali hạt nhân” mà Mỹ và Nga sở hữu giống như chiếc hộp Pandora. Một khi mở “Vali” và kích hoạt hệ thống tấn công hạt nhân thì không biết điều gì sẽ xảy ra với tương lai của loài người. 
Mỹ là quốc gia đầu tiên sở hữu vũ khí hạt nhân và cũng là nơi khai sinh chiếc vali hạt nhân đầu tiên. Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, Tổng thống John F. Kennedy lo ngại những phần tử cực đoan trong giới lãnh đạo Mỹ có thể sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công Liên Xô mà không được sự chấp thuận của ông. Ngoài ra, JFK cũng muốn mình có thể phát động cuộc tấn công hạt nhân chiến lược ở mọi nơi. Vali hạt nhân ra đời từ đó. Các Vali được giao cho Tổng thống Hoa Kỳ để ủy quyền cho một tấn công hạt nhân trong khi đi từ trung tâm mệnh lệnh cố định, chẳng hạn như Phòng Tình trạng Nhà trắng. Nó hoạt động như một trung tâm di động trong hệ thống phòng thủ chiến lược của Hoa Kỳ. Nó được giữ bởi một aide-de-camp.Thiết bị này mang trong mình mã vạch thực hiện cuộc tấn công hạt nhân. Vali hạt nhân sẽ không bao giờ rời tổng thống và cuộc tấn công hạt nhân được tổng thống kích hoạt bằng một thẻ nhựa.
Vali hạt nhân của Mỹ
Sau khi tổng thống đã lựa chọn phương thức tấn công, lệnh này sẽ được chuyển đến Lầu Năm Góc, dùng mã xác nhận có niêm phong; rồi lệnh được chuyển đến Sở chỉ huy chiến lược Mỹ tại Căn cứ không quân Offutt tại Nebraska, Mỹ. Sau đó, lệnh tấn công lại được đưa đến đội thực hành, dùng mật mã đã được mã hóa. Mật mã này phải trùng khớp với mật mã đội thực hành đang giữ trong két sắt. Khi đó, cuộc tấn công bắt đầu. Về cơ bản, quyền kích hoạt cuộc tấn công hoàn toàn thuộc về tổng thống. Về lý thuyết, tổng thống là người kích hoạt nhưng Bộ trưởng Quốc phòng sẽ trực tiếp thực hiện. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ có thể bất tuân nếu nghi ngờ động cơ của tổng thống. Tuy nhiên, điều này sẽ phạm luật đảo chính và tổng thống có thể bãi nhiệm Bộ trưởng Quốc phòng, chỉ định Thứ trưởng Quốc phòng thực hiện nhiệm vụ. Theo Tu chính án thứ 25 của Hiến pháp Hoa Kỳ, về lý thuyết, phó tổng thống có thể tuyên bố tổng thống không đủ tỉnh táo đưa ra một quyết định đúng đắn, nhưng khi đó phó tổng thống cần phải được hầu hết nội các đứng sau lưng.

Đối trọng của Mỹ là Liên Xô, hiện nay là Liên Bang Nga cũng đang sở hữu “Vali hạt nhân”. ên gọi chung cho các vali hạt nhân của Nga là Cheget. Chúng được đặt theo tên dãy núi Cheget ở vùng Kabardino-Balkaria thuộc Nga. Vali hạt nhân là một phần trong hệ thống tự động hóa mệnh lệnh tối cao và kiểm soát Lực lượng Hạt nhân Chiến lược . 
Tổng thống Nga V. Putin nhận Valli hạt nhân vào ngày 31-12-1999
Nếu như ở Mỹ, Tổng thống là người duy nhất có quyền sở hữu vali hạt nhân, thì Nga có tới 3 vali do Tổng thống, Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng tham mưu trưởng quân đội nắm giữ. Ba vali hạt nhân xuất hiện lần đầu khi Mikhail Gorbachev trở thành lãnh đạo Liên Xô năm 1985. Chúng kết nối với hệ thống liên lạc đặc biệt có tên mã Kavkaz gồm dây cáp, sóng radio và sóng vệ tinh nhân tạo. Kavkaz có khả năng điều khiển tên lửa hạt nhân, ngay cả khi hệ thống thông tin chính bị phá hủy. Trong trường hợp nguy cơ về một cuộc tấn công hạt nhân nhằm vào Nga xuất hiện, vali truyền hiệu lệnh sử dụng vũ khí có sức mạnh hủy diệt này tới thiết bị tiếp nhận thông tin cuối cùng mang tên Baksan được đặt tại các trung tâm chỉ huy của Bộ Tổng tham mưu, các lực lượng tên lửa, Hải quân và Không quân. Sau khi nhận tín hiệu mã hóa, nhân viên tại trung tâm sẽ dùng mã riêng để xác nhận chính Tổng thống đã gửi hiệu lệnh đó, chứ không phải ai khác. Một đường dây nóng được nối nhằm xác minh tình hình. Khi 3 quan chức hàng đầu là Tổng thống, Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng tham mưu trưởng quân đội đưa ra quyết định cuối cùng, nhân viên trung tâm sẽ kích hoạt mã tương thích và gửi chúng tới bệ phóng tên lửa hay các tàu ngầm hạt nhân. Khi ấy, các mã tích hợp và tên lửa phóng thẳng tới mục tiêu.

Nếu Mỹ - Nga kích hoạt “Vali hạt nhân” chẳng khác gì nàng Pandora xinh đẹp mở chiếc hộp thần bí được ban tặng, thế giới loài người sẽ đứng trước viễn cảnh “cuộc chiến tranh thế giới thứ 3” khốc liệt. 
Tổng hợp BCT
Chương Thị ba lần chuyển nhà dạy Mạnh Tử nên người
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một năm nữa lại qua, một xuân nữa lại đến, sắp đến độ tuổi 30 nhưng những gì ta làm được so với công mẹ cha quả thật là như ngọn cỏ đứng trước núi thái sơn, như là hạt nước trong biển đại dương tình mẹ bao la. Năm cũ sắp qua là thời gian để ta “Ôn cố tri tân”, yêu cha mẹ, kính thầy, kết bằng hữu mà báo công báo hiếu, đền đáp non sông.
Biển học là vô bờ, trước hết là học lời dạy của mẹ, cha. Mẹ là nguồn sống là người thầy vĩ đại nuôi dạy ta. Trong lịch sử Trung Quốc không ít Bà mẹ bằng tài trí và tấm lòng yêu thương đã nuôi dưỡng con mình trở thành người không lớn, có ích cho xã hội. Một trong những Bà mẹ nổi tiếng nhất lịch sử Trung Hoa là Chương Thị mẹ của Mạnh Tử.
Mạnh Tử (372-289 TCN) là nhà triết học Trung Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử. Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha, tự Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. 
Mạnh Tử
Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến Quốc, thời kỳ nở rộ các nhà tư tưởng lớn với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho gia, Mặc gia... (thời kỳ bách gia tranh minh). Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử với chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con người rằng con người sinh ra đã là thiện rồi nhân chi sơ bản tính thiện, tư tưởng này đối lập với thuyết tính ác của Tuân Tử rằng nhân chi sơ bản tính ác. Ông cho rằng "kẻ lao tâm trị người còn người lao lực thì bị người trị". Học thuyết của ông gói gọi trong các chữ "Nghĩa", "Trí", "Lễ", "Tín". Ông đem học thuyết của mình đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu như Tề Tuyên Vương (nước Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ Vương (nước Nguỵ)...nhưng không được áp dụng. Về cuối đời ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Ông được xem là ông tổ thứ hai của nho giáo và được hậu thế tôn làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử). Có được sự thành công, thành nhân như vậy, một phần lớn là nhờ công dạy dỗ của Mẹ Chương Thị.
Tương truyền rằng, Chương Thị, mẹ của nhà triết học nổi tiếng Mạnh Tử đã nuôi dạy ông với những khuôn phép lễ nghi rất khắt khe.Để con có môi trường học tập tốt, thậm chí bà đã chuyển nhà tới 3 lần.
Chương Thị 3 lần chuyển nhà dạy con
Ngôi nhà đầu tiên họ chuyển đến gần một nghĩa trang. Thấy con trai mình thường hay lẻn ra bãi tha ma để nghịch ngợm, bà liền lập tức chuyển nhà.
Lần thứ 2, ngôi nhà của họ ở gần một khu chợ. Mạnh Tử bắt đầu học cách cân, đo, đong, đếm của những người bán hàng, hay khoe khoang đồ của mình.
Điều này khiến bà Chương Thị phật ý và quyết định chuyển đi lần nữa.
Phải đến nơi ở thứ ba khi ngôi nhà chuyển đến gần một khu trường học, bà mới thấy con trai mình có những biểu hiện ham học hỏi giống các bạn. Lúc này, bà mới định cư ở đây.
Bà cũng có nhiều phương pháp dạy con vô cùng nghiêm khắc nhưng cũng 'thấu tình đạt lý' không kém.
Nhờ đó mà Mạnh Tử bắt đầu dành nhiều thời gian đọc sách, viết chữ và không ngừng phấn đấu. Sau này, quá trình nỗ lực học tập của ông đã trở thành chuẩn mực trong hầu hết các gia đình Đông Á.
Chương Thị, mẹ Mạnh Tử là một trong số nhiều bà mẹ trong lịch sử Trung Quốc nổi tiếng về dạy con. Hay mẹ Nhạc Phi khắc “tận trung báo quốc” vào lưng con để một lòng đánh trận cứu nước…

Tấm lòng và đức hy sinh của mẹ thật là lớn lao vô cùng, sinh ra trong kiếp nhân sinh này phải sống làm sao cho xứng với công mẹ, cha nuôi dạy, sống sao cho trọn đạo lý Hiếu – Trung.
BCT