1. Một số quan niệm
Hệ thống chính trị là khái niệm của khoa
học chính trị đương đại – là một trong những khái niệm phản ánh đặc trưng của
những quan hệ quyền lực chính trị; cũng như các bộ phận, các nhân tố tham gia
vào các quá trình, quy trình chính trị trong thể chế chính trị dân chủ hiện đại.
Liên quan đến vấn đề này có nhiều quan niệm khác nhau, phụ thuộc vào khuynh hướng,
trường phái chính trị học khác nhau.
- HTCT là tổng thể các tổ chức chính trị
của xã hội được chính thức thừa nhận về mặt pháp lý nhằm thực hiện quyền lực
chính trị của xã hội đó. Hệ thống này bao gồm nhà nước, các chính đảng, các
nghiệp đoàn và các tổ chức chính trị khác – trong đó, nhà nước là yếu tố cơ bản,
trung tâm.
- HTCT là hệ thống các tổ chức mà thông
qua đó giai cấp thống trị thực hiện quyền lực trong xã hội.
- Nhà chính trị học mỹ D. Easton, người
được coi là nhà sáng lập lý thuyết về hệ thống chính trị, cho rằng Hệ thống
chính trị giống như một bộ máy tự phát triển, tự điều tiết và phản ứng với tác
động từ bên ngoài. Hệ thống đó có “đầu vào” và đầu ra.
- Một cách tiếp cận khác của nhà chính
trị học G. Almond cho rằng hệ thống chính trị là các kiểu khác nhau của hành vi
chính trị, của tổ chức nhà nước cũng như phi nhà nước.
Tóm lại: Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (đảng,
nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội..) được xây dựng trên các quyền và các
chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo
những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị,
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị
2. Cấu trúc của hệ thống chính trị
Theo cách tiếp cận hệ thống trong định
nghĩa nêu trên, cấu trúc của hệ thống chính trị được chia ra các bộ phận, mỗi bộ
phận là một tiểu hệ thống như:
- Các thể chế (tổ chức), còn gọi là tiểu
hệ thống thể chế.
- Các quan hệ chính trị, còn gọi là tiểu
hệ thống quan hệ.
- Các cơ chế, còn gọi là tiểu hệ thống
cơ chế.
- Các nguyên tắc vận hành, còn gọi là tiểu
hệ thống các nguyên tắc vận hành.
a) các thể chế tổ chức của HTCT bao gồm:
Đảng chính trị, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và các nhóm lợi ích
khác. Phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như
chế độ chính trị, bối cảnh lịch sử và trình độ văn hóa mà vai trò của
các tổ chức của HTCT có vai trò khác nhau trong từng xã hội nhất định. Trong đó
nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị, là trụ cột của hệ thống chính trị,
Đảng chính trị là cầu nối trung gian giữa nhân dân và nhà nước, là đại diện cho
lợi ích của một giai cấp, một tầng lớp trong xã hội, còn các tổ chức chính trị
xã hội khác tham gia tích cực vào công việc quản lý xã hội cùng nhà nước.
Như vậy, các thiết chế như nhà nước, đảng
chính trị, tổ chức chính trị xã hội có vai trò vị trí nhất định, vậy chúng
tương tác với nhau như thế nào? Chúng ta cùng tìm hiểu b (nhỏ) các quan hệ
chính trị.
b) các quan hệ chính trị (tương tác với
nhau như thế nào?)
Các quan hệ chính là sự kết nối, tương
tác giữa các thể chế, cấu trúc của hệ thống chính trị và giữa hệ thống chính trị
với môi trường. Vai trò đặc biệt của các quan hệ chính trị là ở chỗ nó biểu đạt
cân bằng lợi ích, sự trung lập, trạng thái thực tế chấp nhận được giữa các lợi
ích, các nhóm, các giai cấp, các dân tộc trong một hệ thống quyền lực công cộng
và nhân danh quyền lực công cộng để bảo vệ, duy trì sự cân bằng ấy.
Vì sao các mối quan hệ lại biểu đạt cân
bằng lợi ích?
Vì bản chất của chính trị suy cho cùng
là lợi ích, theo Aristotle, chính trị là cai trị với sự bằng lòng của người
dân. Đạt được sự bằng lòng khi và chỉ khi lợi ích được cân bằng giữa các bên
tham gia chính trị với nhau.
Quan hệ chính trị có những mối quan hệ
chủ yếu sau:
- Quan hệ giữa các chủ thể quyền lực và
người được ủy quyền. Đó là quan hệ giữa công dân và nhà nước, giữa đảng viên của
một đảng chính trị với tổ chức đảng của họ, giữa thành viên của các tổ chức
chính trị - xã hội với tổ chức của mình.
Trong quan hệ này, các chủ thể quyền lực thường đóng vai trò quyết định hình thức
tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức được ủy quyền. Các chủ
thể được ủy quyền là người thực thi quyền lực.
Trong nền chính trị Việt Nam, Công dân
Việt Nam ủy một phần quyền lực của mình cho Quốc hội thông qua các đại diện của
mình là đại biểu quốc hội, để thay mặt nhân dân để thực hiện quyền lập hiến, lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao các hoạt
động của nhà nước. Nhân dân phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật, tích cực tham
gia vào việc thực hiện các chính sách của nhà nước.
Quốc hội lập ra chính phủ và giao quyền
hành pháp cho chính phủ để tổ chức thực thi hiến pháp, pháp luật và nghị quyết
của quốc hội, thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội...và các lĩnh vực
đời sống xã hội khác. Như vậy Quốc hội là chủ thể quyền lực đối với chính phủ,
chỉnh phủ phải chịu trách nhiệm trước quốc hội và trở thành cơ quan chấp hành của
quốc hội.
- Quan hệ theo chiều ngang của hệ thống
Đây là mối quan hệ cùng cấp, giữa các thể
chế cấp Trung ương với cấp Trung ương. Ví dụ giữa các cơ quan lập pháp tối cao
(Quốc hội), hành chính tối cao (Chính phủ) và tư pháp tối cao (Tòa án tối cao),
hoặc là mối quan hệ giữa bộ hoặc cơ quan ngang bộ với nhau, quan hệ giữa các chủ
thể chính trị trong hệ thống. Đây là mối quan hệ vừa quy định vai trò chức năng
của các thể chế chính trị vừa thống nhất, phối hợp hành động, vừa ràng buộc, kiềm
chế lẫn nhau.
- Quan hệ dọc
Quan hệ giữa các cơ quan quyền lực Trung
ương với các cơ quan quyền lực địa phương và cơ sở (theo chiều dọc). Bản chất của
quan hệ này là phân cấp và phân quyền trong thực thi quyền lực chính trị và quyền
lực nhà nước sao cho đảm bảo sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc
gia vừa tạo điều kiện cho sự năng động chủ động của các địa phương và cơ sở.
- Quan hệ bên trong và bên ngoài
Quan hệ hệ thống chính trị của một quốc
gia với các hệ thống chính trị bên ngoài. Có thể có những quan hệ khác nhau giữa
các thể chế độc lập của hệ thống chính trị. Nhưng quan trọng nhất, trong mối
quan hệ này là quan hệ giữa các nhà nước quốc gia dân tộc với nhau. Đây cũng
chính là quan hệ giữa hệ thống chính trị với các yếu tố của môi trường bên
ngoài như hệ thống kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia và đặc biệt quan hệ với
các nhà nước quốc gia khác trên trường quốc tế.
Chúng ta vừa tìm hiểu 4 mối quan hệ
chính trong hệ thống chính trị, cũng là 4 mối quan hệ chính giữa bộ phận của hệ
thống chính trị. Vậy, các thành tố của hệ thống chính trị hoạt động như thế nào
hay bằng cách thức nào? Chúng ta tìm hiểu cơ chế
c) cơ chế (cách thức hoạt động như thế
nào?)
Cơ chế tổng hợp các phương thức vận hành
của hệ thống chính trị. Cơ chế vừa phản ánh bản chất chế độ chính trị vừa chi
phối các hoạt động của hệ thống. Có bốn cơ chế cơ bản sau:
- Cơ chế mệnh lệnh hành chính (đi kèm là
một hệ thống công cụ cưỡng bức, trừng phạt). Cơ chế này có trong bất kỳ tổ chức
nào của hệ thống chính trị, nhưng rõ nhất và mang tính đặc trưng là trong thực
thi quyền lực nhà nước.
- Cơ chế thể chế (xây dựng hệ thống các
tổ chức). Khi các tổ chức được đặt đúng vị trí, xác định rõ các chức năng vai
trò nhiệm vụ của chúng, đồng thời các cơ chế, các quan hệ thông suốt, hệ thống
chính trị vận hành đúng nguyên tắc… Khi đó quá trình thực thi quyền lực chính
trị và quyền lực nhà nước diễn ra như một quá trình tự nhiên, hệ thống chính trị
tự hoạt động, tự điều chỉnh và tự hoàn thiện. ( liên hệ thuyết “chính danh – khổng
tử”, phân chia tầng lớp của Platon,..)
- Cơ chế tư vấn là tổng hợp các phương
thức làm thay đổi nhận thức của các đối tượng thực thi quyền lực để thay đổi
hành vi của họ.
- Cơ chế kiểm soát quyền lực
Việc kiểm soát quyền lực có thể thực hiện
trong tổ chức và trong quá trình thực thi quyền lực. Có các cơ chế kiểm soát từ
bên trong bộ máy nhà nước (kiềm chế, chế ước giữa các cơ quan quyền lực), cũng
có thể kiểm soát từ bên ngoài, như giám sát của nhân dân, các đảng chính trị và
các tổ chức chính trị - xã hội… Kiểm soát quyền lực là một đảm bảo cho các cơ
quan quyền lực thực thi đúng thẩm quyền.
Đối với một số nhà nước tư bản phương
tây, để kiểm soát quyền lực thì dùng “quyền lực đối trọng quyền lực, thực hiện
cơ chế tam quyền phân lập. đối với nước ta, thì không có sự phân chia tam quyền
phân lập mà quyền lập tập trung, có sự phân công phối hợp, kiểm soát giữa các
ngành trong việc thực thi quyền hành, tư và lập pháp.
Bốn cơ chế nêu trên có thể được vận hành
đồng thời, có thể riêng biệt tùy theo các quan hệ giữa chủ thể chính trị và đối
tượng chịu tác động của quyền lực chính trị. Các cơ chế thể hiện được trình độ
thuần thục của hệ thống và sự trưởng thành về văn hóa chính trị.
d) nguyên tắc vận hành (dựa trên cái gì
để hoạt động)
Mỗi hệ thống chính trị có những nguyên tắc
và cơ chế vận hành riêng. Dựa trên những nguyên tắc này mà các quan hệ, hành vi
chính trị được định hướng và tạo thành một bộ phận hữu cơ của hệ thống. Cũng cần
nói thêm rằng giữa “nguyên tắc” và “cơ chế” không có những bức tường thành ngăn
cách. Nói cách khác giới hạn giữa các khái niệm đó chỉ là tương đối.
Ngày nay, chỉ trừ một số rất ít nước dưới
chế độ quân chủ thế tập, hầu hết ở các nước đều phổ biến một số nguyên tắc sau:
- Quyền lực chính trị thuộc về nhân dân:
Nguyên tắc này khẳng định tính khách
quan quyền lực của nhân dân với tư cách là chủ thể của quá trình lao động sản
xuất xã hội, là những người sáng tạo ra các giá trị xã hội (nguồn gốc của quyền
lực), ủy một phần quyền của mình thông qua những người đại diện để tổ chức và
thực thi quyền lực chính trị quyền lực nhà nước(khế ước xã hội – rousseau).
- Ủy quyền có điều kiện và có thời hạn
Nguyên tắc này xác định ai là người có
thể được ủy quyền và ủy quyền trong bao lâu. Để đảm bảo nguyên tắc này phải xây
dựng thể chế bầu cử bao gồm lựa chọn các ứng viên, thể thức bầu cử và thủ tục
truất quyền khi cần thiết.
Công dân Việt Nam ủy một phần quyền của
mình cho đại biểu quốc hội trong thời hạn là 5 năm, thông qua bầu cử quốc hội.
Khi được chính phủ Pháp mời sang thăm
chính thức nước Pháp, bác Hồ ký sắc lệnh số 82 ngày 29/5/1946 ủy nhiệm cụ Huỳnh
làm quyền chủ tịch chính phủ trong thời gian bác đi vắng. Trước ngày đi Pháp,
bác mời cụ đến bàn công việc. Ông Cù Huy Cận (được bác cử tạm giữ chức Thứ trưởng
Bộ Nội vụ thay cho ông Hoàng Minh Giám đi dự Hội nghị Fontainebleau) kể lại:
“Hôm đó, bên ấm trà nóng, cụ Huỳnh nói với bác Hồ: “Cụ đi vắng, ở nhà có nhiều
việc khó khăn bất trắc xảy ra thì làm thế nào ?”. Bác Hồ nói ngay một câu: “Dĩ
bất biến ứng vạn biến”… Là một nhà nho, cụ Huỳnh đã hiểu toàn bộ ý tứ bác Hồ gửi
gắm”.
- Nguyên tắc dân chủ
Nguyên tắc này thực chất là tạo các điều
kiện kinh tế - xã hội và pháp lý để dân tham gia ngày càng nhiều và thực chất
vào công việc của nhà nước và xã hội, tự quyết định vận mệnh của mình thông qua
nhà nước, bằng nhà nước. Cũng cần nói thêm rằng, nội hàm của nguyên tắc dân chủ
là tương đồng với nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hồ Chí Minh nói: “Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Tập thể lãnh đạo
là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
tức là dân chủ tập trung”
Những biểu hiện cụ thể của nguyên tắc
này là:
1. Công khai các hoạt động của các tổ chức
trong hệ thống chính trị, đặc biệt là hoạt động của nhà nước.
2. Tạo điều kiện để dân tiếp cận thông
tin, đặc biệt là thông tin về hoạt động của nhà nước.
3. Tạo điều kiện để dân bày tỏ nguyện vọng
(dân chủ trực tiếp, gián tiếp).
4. Bầu cử tự do để nhân dân lựa chọn và
bãi miễn các đại biểu, thể hiện ý chí; phải hỏi dân (trưng cầu dân ý) khi nhà
nước muốn quyết định những vấn đề vượt quá thẩm quyền.
5. Thiểu số phục tùng quyết định của đa
số, đa số tôn trọng và bảo vệ thiểu số.
- Nguyên tắc tập trung - phân quyền hợp lý
Đây là hai mặt của một vấn đề trong đời
sống chính trị, không có tập trung quyền lực đủ mức thì không có quyền lực
chính trị cũng như quyền lực nhà nước. Mặt khác, không thực hiện sự phân quyền
(với các mức độ khác nhau như: phân lập, phân công, phân cấp, ủy quyền, tản quyền…)
thì cũng không thể thực hiện được quyền lực chính trị hoặc quyền lực nhà nước.
Tập trung (thống nhất) quyền lực thể hiện:
+ Lãnh thổ quốc gia dân tộc thống nhất.
+ Xã hội công dân thống nhất, trên đó
xây dựng nhà nước.
+ Ý chí nhân dân được tổng hợp lại thành
những văn bản (khế ước) có tính pháp lý hợp pháp (hiến pháp và pháp luật...) từ
đây xây dựng những thể chế quyền lực thống nhất (cơ quan đại biểu cao nhất, cơ
quan hành chính cao nhất, cơ quan xét xử cao nhất...).
+ Thống nhất bởi đảng cầm quyền. Đảng cầm
quyền chi phối hệ thống chính trị bằng các phương thức chính trị như ảnh hưởng
cương lĩnh, đường lối, nêu gương, tổ chức, vận động giáo dục...
Trên cơ sở những thống nhất trên đây, mà
biểu hiện ra là tính đồng thuận, tính thỏa hiệp xã hội, sẽ thực hiện sự phân
quyền. Sự phân quyền mà sắc thái của nó được các tác giả mô tả và nhấn mạnh rất
khác nhau như "phân chia" "phân công" "phân quyền"
"phân cấp" "tản quyền" v.v... Điều muốn nói đến giao cho
các chủ thể khác nhau theo chiều ngang (Trung ương - Trung ương) hay theo chiều
dọc (Trung ương - địa phương) những nhiệm vụ có tính chức năng của nhà nước (chức
năng chính trị hoặc xã hội).
Vì vậy phân quyền là một biểu hiện tất yếu
của chỉnh thể quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước trong tính phức tạp, đa
dạng, trong trạng thái vận động của nó. Không có sự phân quyền, trong điều kiện
xã hội hiện đại, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước sẽ không được thực
thi.
Cần lưu ý là hệ thống chính trị ở mỗi nước
khác nhau có thể có những mô hình, cấu trúc, vận hành khác nhau. Ở một số nước
vấn đề tôn giáo rất đặc biệt, nhưng ở nhiều nước khác thì không đến mức như vậy.
Vì thế về hệ thống chính trị không những có những quan niệm khác nhau mà còn có
cách tổ chức và vận hành khác nhau. Mặc dù vậy, vấn đề hệ thống chính trị vẫn bị
chi phối bởi những quy luật chung, có tính phổ biến, nếu không tuân thủ những yếu
tố đó không thể hiểu các hệ thống chính trị cụ thể được.
3. Phân loại và chức năng của hệ thống
chính trị
a) Phân loại hệ thống chính trị
- Dựa theo hệ tư tưởng chính trị phân
chia thành hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị tư bản chủ
nghĩa
- Dựa theo số lượng đảng phái chia thành
hệ thống chính trị đơn đảng và hệ thống chính trị đa đảng
- Dựa vào tính chất tham gia chính trị
chia thành hệ thống chính trị độc tài và dân chủ
- dựa vào mức độ phân quyền và ủy quyền
chia thành hệ thống chính trị tập trung quyền lực và hệ thống chính trị phân
quyền.
- theo mô hình phân chia quyền lực nhà
nước phân chia thành hệ thống chính trị đại nghị, tổng thống và hệ thống chính
trị hỗn hợp
b) Chức năng hệ thống chính trị
- Xác định các mục tiêu, nhiệm vụ và con
đường phát triển xã hội
- Tổ chức hoạt động của xã hội thực hiện
những mục tiêu và chương trình đã được thông qua
- Hình thành ý thức chính trị và hướng dẫn
các thành viên xã hội tham gia chính trị và hoạt động chính trị
- Đảm bảo an ninh bên trong và bên ngoài
và sự ổn định của chế độ chính trị
- Phân bổ các giá trị vật chất và tinh
thần
- Phối hợp giữa lợi ích nhà nước và cộng
đồng xã hội
- Soạn thảo những quy tắc và luật lệ điều
chỉnh hành vi con người và các nhóm trong xã hội.
- Kiểm soát việc thực hiện luật pháp và
các quy tắc, ngăn chặn các hành vi hủy hoại chế độ chính trị
Tài liệu tham khảo: Tập bài giảng chính trị học - Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
0 comments: