1. Những
đặc điểm cơ bản của hệ thống chính trị Việt Nam hiện đại
Về cơ bản, hệ thống chính trị nước ta cũng được tổ
chức theo những mô hình phổ biến của hệ thống chính trị các nước trên thế giới.
Mặt khác hệ thống chính trị nước ta cũng có những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, hệ thống chính trị nước ta
do duy nhất một đảng - Đảng cộng sản lãnh
đạo.
Trong lịch sử chính trị cận - hiện đại nước ta đã
từng tồn tại nhiều đảng chính trị khác nhau. Trước cách mạng Tháng Tám 1945, ở
Việt Nam có trên 10 đảng chính trị hoạt động.
Các đảng này có nhiều khuynh hướng chính trị khác
nhau, trong đó có đảng yêu nước chống chủ nghĩa thực dân Pháp. Tuy vậy, các
đảng hoặc bị tan rã sau những cuộc đàn áp hoặc không đóng vai trò đáng kể trong
đời sống chính trị lúc bấy giờ. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mặc dù phải chịu
nhiều hi sinh, tổn thất, nhưng vẫn đứng vững và phát triển, thực hiện được vai
trò đảng duy nhất lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt
Nam. Vai trò đó còn giữ đến ngày nay.
Khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa ra đời, trong
thời kỳ "ngàn cân treo sợi tóc" có nhiều đảng chính trị đã tham gia
chính trường, như Đảng Cộng sản Đông Dương, Việt Nam Cách mạng đồng minh, tức
Việt Cách, do Nguyễn Hải Thần thành lập, Đại Việt Quốc dân đảng (do Trương Tử
Anh thành lập). Hai đảng này theo chủ nghĩa dân tộc, thân Tưởng.
Trong cuộc Tổng tuyển cử tháng 1 - 1946, Việt Quốc
và Viết Cách là những đảng có quyền và lúc đầu đã tham gia tranh cử, nhưng sau
đã từ chối. Tuy vậy, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã
dành 70 ghế cho hai đảng này. Lúc này, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tuyên bố tự
giải tán, công khai tham gia bầu cử chỉ là Hội Nghiên cứu mác xít và Mặt trận
Việt Minh (do Đảng thành lập). Trong bối cảnh bầu cử đa đảng đối lập, Mặt trận
Việt Minh mà thực chất là Đảng Cộng sản Đông Dương đã giành thắng lợi, trở
thành đảng cầm quyền. Năm 1946, với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Đông Dương,
Đảng Dân chủ Việt Nam được thành lập. Đảng Xã hội Việt Nam và Đảng Dân chủ Việt
Nam đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1947 đến giữa những năm 80 thế kỷ XX, ở miền
Bắc, có ba đảng chính trị, nhưng chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng
duy nhất đóng vai trò lãnh đạo và là đảng cầm quyền. Từ giữa những năm 1980,
khi Đảng Xã hội và Đảng Dân chủ tuyên bố tự giải tán đến nay, hệ thống đảng ở
nước ta là hệ thống duy nhất một đảng và chỉ có một đảng cầm quyền, lãnh đạo
nhà nước và xã hội.
Như vậy, vai trò là đảng duy
nhất lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị
nước ta không chỉ tùy thuộc vào ý chí chủ quan, năng lực của Đảng mà còn có
nguyên nhân lịch sử của đất nước.
Thứ hai: Các tổ chức chính trị - xã hội
do Đảng Cộng sản thành lập, có lịch sử đấu tranh vẻ vang, có vai trò to lớn
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước.
Thứ ba: Hệ thống chính trị nước ta là hệ
thống chính trị được xây dựng theo mô hình Xô viết, đang trong quá trình đổi
mới toàn diện.
Thứ tư: Nền hành chính nhà nước, một bộ
phận quan trọng của hệ thống chính trị còn rất non trẻ (so với các nền hành
chính các nước phương Tây có lịch sử liên tục hàng trăm năm), hầu như không kế
thừa được gì từ nền cai trị của chế độ thực dân - phong kiến, bị ảnh hưởng nặng
của mô hình tập trung quan liêu cao độ, nhiều năm điều hành chiến tranh, lại
phải quản lý đất nước thực hiện những nhiệm vụ lịch sử mới mẻ và to lớn. Nói
cách khác, chúng ta đang cố gắng xây dựng một hệ thống chính trị hiện đại, dân
chủ - pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng nền tảng kinh tế -xã hội còn yếu ớt.
Từ đó đặt ra nhiều khó khăn và thách thức cho quá trình đổi mới hệ thống chính
trị ở nước ta.
2. Cấu trúc của hệ thống chính trị nước ta
a) Tổ chức
bộ máy (hệ thống thể chế) bao gồm:
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước và xã
hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị.
- Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao
gồm Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp (Tòa án và Viện kiểm
sát nhân dân) và chính quyền địa phương.
+ Quốc hội nước ta có chức năng
lập pháp, quyết định những vấn đề xã hội, quốc phòng an ninh của đất nước,
những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan
hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội
thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
+ Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam về đối nội và đối ngoại.
+ Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhân dân các địa phương bầu ra Hội đồng nhân dân cấp
mình. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Hội đồng
nhân dân bầu ra Ủy ban nhân dân, Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm
chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và
nghị quyết của Hội đồng nhân dân (Hiến pháp 2013, điều 123).
+ Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và Viện kiểm
sát nhân dân là bảo vệ Hiến pháp, pháp luật của nước ta.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc
hội, các cơ quan khác như Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân đều được Quốc hội cử ra, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, báo
cáo công tác trước Quốc hội.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội thành viên là một bộ phận của hệ thống chính trị.
b) Các quan
hệ chính trị
Ngoài các quan hệ mang tính phổ biến (như đã phân
tích ở phần lý thuyết chung), trong hệ thống chính trị nước ta, các quan hệ
chính trị được xác lập do một cơ chế chủ đạo (và cũng là quan hệ chủ đạo) là
Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
c) Các
nguyên tắc và cơ chế vận hành
Hệ thống chính trị nước ta vừa hoạt động theo những
nguyên tắc phổ biến của hệ thống chính trị nói chung vừa tuân thủ những nguyên
tắc đặc thù khác, như sau:
- Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Ủy quyền có điều kiện và có thời hạn (thông qua
bầu cử tự do, bình đẳng, phổ thông, trực tiếp và kín).
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước và xã
hội.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc hoạt
động cơ bản của hệ thống chính trị.
- Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách.
3. Khái quát thực trạng hoạt động của hệ thống chính
trị Việt Nam
a) Những
thành tựu
- Tính hiệu lực, tính kiểm soát, tính huy động cao.
- Tạo sức mạnh đoàn kết nhất trí cao.
- Thống nhất từ trên xuống dưới.
- Tạo sự ổn định chính trị - xã hội cần thiết.
- Tạo được sự đồng thuận xã hội.
Hệ thống chính trị nước ta tỏ rõ ưu việt trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Sau chiến tranh, đất nước trải qua nhiều khó khăn
chủ quan và khách quan, đặc biệt là sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã,
nhưng chúng ta vẫn đứng vững được vượt qua thử thách, khủng hoảng đưa đất nước
phát triển lên một bước mới, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử.
Nguyên nhân của những thành tựu đó là “do Đảng ta có
bản lĩnh vững vàng và đường lối lãnh đạo đúng đắn, Nhà nước có cố gắng lớn
trong việc điều hành, quản lý; toàn dân và toàn quân phát huy lòng yêu nước và
tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù, năng động sáng tạo, tiếp tục
thực hiện đổi mới, ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
.
b) Những hạn chế
- Có sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, phương thức
và phạm vi hoạt động của từng chủ thể trong hệ thống chính trị.
Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước
quản lý chưa được cụ thể hóa. “Hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và
các điều kiện để thực thi dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân còn thiếu và chưa
đồng bộ”.
- Chưa thực hiện tốt các cơ chế thực thi quyền lực
chính trị.
“Chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ
chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những
điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả.”
- Chúng ta còn chưa thực hiện đầy đủ và đúng đắn các
nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị. Thể hiện trong các vấn đề:
+ Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp còn hình thức.
+ Chưa thực sự kiểm soát các quá trình thực thi
quyền lực trong hệ thống chính trị.
+ Chưa xác định cụ thể nội dung phương thức lãnh
đạo, chịu trách nhiệm của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
+ Còn quan niệm giản đơn về thống nhất quyền lực nhà
nước và sự phân công các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền.
+ Cải cách hành chính chậm, thiếu kiên quyết, hiệu
quả thấp.
Những yếu kém của hệ thống chính trị được Đại hội
đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII chỉ rõ:
- “Tổ chức bộ
máy của Đảng và của toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức
năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động
nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ;
thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức, nhất là trách nhiệm của người
đứng đầu chưa rõ.”
- Việc “dự
báo, hoạch định, lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước còn
nhiều hạn chế. Việc thể chế hóa, xây dựng chương trình hành động và tổ chức
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng chưa kịp thời,
đồng bộ, cụ thể và hiệu quả chưa cao”.
- “Chất lượng
và hiệu quả công tác tư tưởng lý luận chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.”
- Các cơ quan
nhà nước cũng còn nhiều yếu kém bất cập. “Chưa khắc phục được sự chồng chéo,
vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng đến sự thống
nhất quyền lực của Nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước”.
- Hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cũng chưa ngang tầm với chức
năng, vai trò tiềm năng của chúng. “Chậm đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động”. Tổ chức, nội dung và hoạt động còn nặng tính hành chính, tính phong trào
hình thức, xa dân; chậm đổi mới; chưa thực sự bảo vệ lợi ích chính đáng của
thành viên hội viên. “Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách để thể chế hóa
đương lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ”.
4. Những
định hướng lớn có tính giải pháp về đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam
Đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta cần tuân thủ
những định hướng có tính giải pháp lớn được các kỳ Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc trong thời kỳ đổi mới vạch ra, mà gần nhất là Đại hội đại biểu đảng toàn
quốc lần thứ XII (1 - 2016)
a) Xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng lãnh đạo
là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Trong đó cần chú trọng
- Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương
thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
- Hoàn thiện chức năng và nhiệm vụ quyền hạn của các
cơ quan nhà nước theo Hiến pháp 2013.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, giải quyết tốt quan
hệ giữa Nhà nước và thị trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tăng cường giáo
dục pháp luật.
- Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp và kiểm
soát quyền lực theo chiều ngang và theo chiều dọc, ở tất cả các cấp của Nhà
nước. Hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm
nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
- Xây dựng Chính phủ trong sạch, vững mạnh, hiện
đại, chú trọng xây dựng đội ngũ công chức văn hóa công vụ.
- Tiếp tục thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp,
phân định rành mạch thẩm quyền hành chính với quyền hạn tư pháp trong tổ chức
và hoạt động của cơ quan tư pháp. Tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo
đảm nguyên tắc độc lập, tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị
can, bị cáo; đổi mới công tác điều tra, tránh oan sai, thực hiện sự công minh
của tư pháp.
b) Phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
- Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải
đảm bảo phát huy dân chủ trong Đảng, là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ
trong xã hội. Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội, hoàn thiện các cơ chế giám sát, phản
biện xã hội; các chủ trương chính sách, pháp luật đều xuất phát từ nguyện vọng,
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là các
luật liên quan đến quyền con người, quyền công dân, như luật về hội, luật biểu
tình, luật trưng cầu dân ý…
- Hoàn thiện hệ thống bầu cử, nhằm nâng cao chất lượng
của đại biểu dân cử các cấp và Quốc hội. Tăng thêm đại biểu chuyên trách của
Quốc hội, hướng tới xây dựng một Quốc hội chuyên nghiệp.
- Thể chế hóa và nâng cao chất
lượng các hình thức dân chủ gián tiếp, dân chủ đại diện. Thực hiện tốt
Quy chế dân chủ cơ sở và Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
c) Xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và
sức chiến đấu của Đảng
- Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị, nâng cao bản
lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, năng lực cầm quyền, năng lực hoạch định đường
lối, chính sách. Hoàn thiện cơ chế, quy chế tự phê bình, phê bình và chất vấn
trong Đảng.
- Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận. Tiếp tục đổi
mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hệ thống các quan điểm về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đổi mới công
tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, giáo dục lý
luận chính trị cho cán bộ, đảng viên.
- Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí.
- Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của
Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xác định rõ
trách nhiệm giữa lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách, hoàn thiện cơ chế kiểm
soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền; nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất
một số cơ quan đảng và nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ.
- Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. Đổi mới mạnh
mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả công tác kiểm tra giám sát, kỷ luật của Đảng.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
d) Tiếp tục
đổi mới nội dung phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể chính trị – xã hội. Trong đó cần chú ý
- Đổi mới hình thức và nội dung hoạt động. Mở rộng
và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, tham gia các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hóa hữu nghị, từ thiện nhân đạo…
sớm ban hành luật về hội.
- Thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã
hội; xây dựng sự đồng thuận xã hội, “lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh làm điểm tương
đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia -
dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan
dung”; “xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở giải quyết hài hòa quan
hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân”.
- Khắc phục tệ hành chính hóa, xa dân.
- Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước gắn với
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng địa phương và
địa bàn dân cư.
- Hướng mạnh hoạt động về cơ sở, cộng đồng dân cư và
từng gia đình.
e) Những
định hướng có tính giải pháp này cần được thực hiện trong điều kiện tích cực
chống nạn quan liêu tham nhũng, bảo đảm sự phát triển bền vững nền kinh tế và
thực hiện một bước công bằng xã hội.
5. Những
phương châm và nguyên tắc cơ bản đối với quá trình đổi mới hệ thống chính trị
nước ta
a) Phương
châm
- Thực hiện đổi mới từng bước vững chắc trên cơ sở
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
- Khâu mấu chốt là phân định rõ chức năng và giải
quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ.
b) Nguyên
tắc
Một: Đổi mới
hệ thống chính trị nhằm tạo điều kiện cho ổn định chính trị phát triển kinh tế
– xã hội.
Hai: Đổi mới
hệ thống chính trị phải đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị.
Ba: Đổi mới
hệ thống chính trị nhằm tăng cường hiệu quả của hệ thống chính trị theo hướng
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bốn: Đổi mới
hệ thống chính trị phải đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.
Năm: Đổi mới
hệ thống chính trị phải đồng thời với quyết tâm phòng chống quan liêu tham
nhũng.
Khâu có ý nghĩa sống còn là đổi mới hệ thống chính
trị ở cơ sở. Đổi mới hệ thống chính trị đồng thời phải thực hiện tốt Quy chế
dân chủ cơ sở, Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn; dân chủ hóa đời sống xã
hội, mở rộng dân chủ trực tiếp, thực hiện tốt hơn dân chủ đại diện, tạo điều
kiện cho nhân dân thực sự tham gia ngày càng đông đảo và hiệu quả vào công việc
của Nhà nước và xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Đặng Đình Tân (chủ biên), Thể chế đảng cầm quyền ở nước ta, một số vấn đề lý luận và thực tiễn Nxb Chính trị quốc gia, H. 2004.
- Lê Minh Quân, Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, H. 2003.
- Phan Xuân Sơn (chủ biên), Các đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở. Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002
0 comments: