Tuesday, January 23, 2018

Lòng yêu nước nhìn từ góc độ U23 Việt Nam

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Tinh thần ấy thôi thúc bao thế hế cha anh hi sinh quên mình vì Tổ quốc. Ngày này, tinh thần ấy lại sôi sục hơn bao giờ hết, tinh thần ấy hiện hữu trong mỗi con người việt nam, tinh thần ấy làm nên chiến thắng vĩ đại chấn động của đội tuyển bóng đá U23 Việt Nam. Lòng yêu nước đã giúp U23 lướt qua bao nhiêu khó khăn, vượt qua bao đối thủ, kết thành một tập thể đoàn kết hướng tới chiến thắng vinh quang. Đội tuyền U23 Việt Nam đã chiến thắng bằng tất cả tinh thần và lực lượng, với ý chí kiên cường, bản lĩnh vững vàng, tất cả vì màu cờ sắc áo đã viết nên câu chuyện cổ tích đời thường, mở ra trang sử hào hùng của nền thể thao Việt Nam.
U23 Việt Nam vào chung kết Châu Á
Bác Hồ nói, “yêu nước là phải thi đua, thi đua là yêu nước”. Với những chiến công vĩ đại, họ là những người yêu nước vĩ đại, mỗi cầu thủ là một tấm gương cho tinh thần chiến đấu vì màu cờ sắc áo, vì chiến thắng của nước nhà, vì cả dân tộc Việt Nam. Nó hồi sinh hàng triệu trái tim, lan tỏa đến mỗi con người Việt Nam sinh sống trên mọi miền của Tổ Quốc. Sau chiến thắng người hâm mộ khắp cả nước với cờ đỏ sao vàng đổ ra mọi nẻo đường hô vang “Việt Nam chiến thắng”, hát bài “như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Điều đó thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc Việt Nam, Việt Nam chỉ có thể là một. Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta, đó là hiện thân của những giá trị truyền thống tốt đẹp, đồng thời là sự kết nối giữa quá khứ với tương lai. Người là sức mạnh, và để ngày hôm nay đội tuyển của chúng ta đã đánh bại bao nhiêu đối thủ mạnh để tiến vào vòng chung kết, đó là kì tích, là chiến công hiển hách của lịch sử bóng đá nước nhà, đó là tinh thần yêu nước mãnh liệt nó lướt qua mọi đối thủ - và tinh thần yêu nước ấy trở thành động lực để chúng ta tiến lên phía trước, sánh vai cường quốc năm châu như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Và tự hào, hai chữ Việt Nam, hôm nay, đội bóng của chúng ta đã sánh vai cùng các đội bóng lớn hàng đầu của Châu Á.
Tinh thần dân tộc, lòng yêu nước không chỉ đang lên trong bóng đá mà còn đang dâng mạnh trong các lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế và đời sống xã hội. Về chính trị, sau khi thực hiện đường lối đối mới đất nước đã gặt hái những thành tựu to lớn; không ngừng phát triển và hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm từng tổ chức, sáp nhập một số ban, bộ, ngành Trung ương để giảm bớt đầu mối, thực hiện cải cách hành chính trong Đảng, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đặc biệt, sau Đại hội XII của Đảng, Việt Nam tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị, sắp xếp lại bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực và hiệu quả. Xử lý nghiêm minh cán bộ, công chức vi phạm quy chế của đảng, cán bộ tham ô tham nhũng làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của đảng và niềm tin yêu của nhân dân. Đảng ta không ngừng đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch kích động, gây chia rẽ nội bộ, mất đoàn kết, từng bước phá vỡ âm mưu “tự chuyển biến” “tự chuyển hóa” và các chiêu bài dân chủ Phương Tây của kẻ thù.
Về kinh tế, chúng ta đã và đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: trong gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế gây ấn tượng, được thế giới đánh giá cao, sức mạnh kinh tế của đất nước tăng lên nhiều. Sau 10 năm đổi mới (1996) đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội; sau 25 năm đổi mới (năm 2010) đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Trong giai đoạn 2001- 2010, kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD gấp 3,26 lần so với năm 2000, năm 2011 khoảng 170 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1168 USD, năm 2014 ước tính khoảng 1900 USD/ người. Trong 5 năm 2011-2015, do sự tác động của khủng hoảng tài chính thê giới, suy thoái kinh tế toàn cầu nên  nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng GDP bị giảm sút. Tuy vậy, tốc độ tăng GDP bình quân vẫn ở mức khá, ước đạt 5,8%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 5 năm 2006-2010 đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch đề ra. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấn hớn 1,3 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 17,5%. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên, khu vực nông nghiệp giảm xuống. Năm 2010, trong cơ cấu GDP, khu vực công nghiệp chiếm 41,1%, khu vực dịch vụ chiếm 38,3%, khu vực nông nghiệp chiếm 20,6%. Kết cấu hạ tầng ngày càng được xây dựng hiện đại, đồng bộ; nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng lên ( năm 2013 là 49%), đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Năm 2017, là năm chủ nhà APEC Việt Nam đã gặt hái nhiều thành công và vị thế và uy tín của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Về văn hóa – xã hội,  Đảng ta đã đề ra chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong  từng chính sách và từng bước phát triển; quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, coi phát triển giáo dục, đào tạo cùng với  khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu; lấy Phát triển khoa học công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFT) vào tăng trưởng. Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã rất quan tâm thực hiện các chính sác xã hội vì hạnh phúc của con người, coi đây là thể hiện tính ưu việt, bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và cũng là khắc phục mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường. Chính sách xã hội bảo đảm và không ngững nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên xã hội về ăn, ở, đi lại, lao động, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất. Mỗi năm tạo bình quân 1,5 đến 1,6 triệu việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Xây dựng và triển khai Luật Việc làm; nghiên cứu xây dựng chương trình việc làm công. Trong gần 30 năm đổi mới, chính sách nhất quán cuả Đảng và Nhà nước là giảm nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm giàu  hợp pháp, chính đáng; chú trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước gỉam bình quân 1,5-2%/ năm. Năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 60% trước đổi mới xuống còn 9,5%, năm 2013 còn 7,5%, phấn đấu đến năm 2015 còn dưới 5%. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được Liên Hiệp quốc công nhận và đánh giá cao.
Sau đại hội 12 của Đảng, đất nước ta từng bước phát triển, giành thắng lợi này đến thắng lợi khác, tiếp tục thực hiện thắng lợi những đường lối chiến lược mà Đảng ta đã vạch ra. Trong những năm tới dưới sự lãnh đạo của đảng hy vọng sẽ xây dựng một bộ máy công bộc liêm khiết, nghiêm minh hơn nữa để phụng sự nhân dân, xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân; tiếp tục chèo lái con thuyền kinh tế Việt Nam ra khơi, thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao năng suất lao động, từng bước ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Thời kỳ mới, hội nhập mới, thời cơ mới, nhưng cũng nhiều khó khăn, thách thức mới, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng sự đoàn kết toàn dân, lòng yêu nước của mỗi con người Đất Việt sẽ vượt qua bao hiểm nguy khó khăn để tiến lên phía trước, và quan trọng hơn, mỗi người chúng ta sẽ không chịu khuất phục, tiếp tục chiến đấu đến cùng như tinh thần quật cường mà U23 Việt Nam đã truyền lửa cho chúng ta, tương lai thuộc về chúng ta, và chúng ta sẽ “sánh vai cùng cường quốc năm châu” như con đường đội bóng U23 Việt Nam đã làm được.
BCT

Monday, January 22, 2018

Hài hước Cha và Con
Tình yêu sẽ là sợi dây kết nối cha con!
Lưu lại Video này để khi nào có con sẽ là động lực!




Nguồn: https://www.facebook.com/tuctung.official/videos/pcb.
Trận Tỉnh Hình - Bối thủy nhất chiến
Tìm đường sống trong chỗ chết -“Trong tình hình như vậy, một người lính sẽ chiến đấu hết mình vì họ không thể chạy trốn. Nếu được đặt vào một nơi mà họ có thể rút lui được thì chắc chắn họ sẽ bỏ chạy” – Hàn Tín

Hàn Tín (256 TCN – 195 TCN) là một vị tướng tài ba lỗi lạc, đã có rất nhiều đóng góp cho triều đại nhà Hán (206 TCN – 220 SCN) với những cuộc trường chinh thống nhất lãnh thổ.
Hàn Tín (256 - 195 TCN)
Vào năm 205 TCN, sau khi đã chinh phạt nước Ngụy, tướng quân Hàn Tín nhận được lệnh tấn công nước Triệu. Lúc bấy giờ nước Triệu có 20 vạn quân trong khi dưới trướng tướng quân Hàn Tín chỉ có 3 vạn. Thực ra, trước đó, trong tay Hàn Tín có 13 vạn quân, nhưng Lưu Bang lấy 10 vạn đại quân để giải cứu nguy cấp khi bị Hạng Vũ bao vây ở Quỳnh Dương.
Nước Triệu có ải Tỉnh Hình nằm ở phía tây dãy núi Thái Hàng Sơn, lại có dòng sông chắn phía trước, địa thế vô cùng kiên cố. Tướng quân Hàn Tín hiểu rất rõ những điều kiện bất thuận về địa thế, đồng thời ông cũng nhận thấy binh lính đã quá mỏi mệt sau một hành trình dài và quân lương có thể dễ dàng bị quân Triệu cắt đứt. Vậy nên ông đã nghĩ ra một kế, đó là “Tìm đường sống trong chỗ chết”, thực ra không phải Hàn Tín nghĩ ra kế này mà ông chỉ vận dụng lại kế này của Hạng Vũ khi đánh nhau với quân Tần ở Cự Lộc
Hàn Tín  ra lệnh cho một tốp binh sĩ vượt sông và đóng quân đối diện cách ải Tỉnh Hình 30 dặm. Sau đó ông ra lệnh cho binh lính bắt đầu đào hào và lập chiến lũy. Đồng thời, ông đã bí mật ra lệnh cho một toán quân khác gồm 2000 người do Quán Anh chỉ huy, chờ đợi ngay khi quân Triệu ra khỏi thành thì xâm nhập vào trong để đặt cờ quân Hán lên cổng thành. Các tướng lĩnh nước Triệu thấy thế đã cười nhạo tướng quân Hàn Tín, bởi vì đây là điều tối kỵ trong binh pháp, một khi thất bại sẽ không có đường lùi với con sông phía sau. Tướng quân Hàn Tín vẫn bất động tâm.
Vào giữa đêm hôm đó, tướng quân Hàn Tín yêu cầu quân sĩ của mình chỉ ăn nhẹ, và hứa sẽ tổ chức ăn mừng vào ngày hôm sau, sau khi quân Triệu đã bị tiêu diệt. Mặc dù họ đã làm theo lời ông, nhưng đến cả những người thân cận cũng không dám tin tưởng lời ông nói. 
Sáng sớm hôm sau, tướng quân Hàn Tín ra lệnh gióng trống mở cờ xuất quân thẳng tiến về phía thành Tỉnh Hình. Quân chủ lực của Triệu đã bỏ thành mà đuổi theo quân Hán. Lập tức, tướng quân Hàn Tín lệnh cho binh sỹ rút lui về phía các hào sâu và chiến lũy đã làm sẵn. Quân nước Triệu gấp rút đuổi theo khiến quân Hán bị dồn vào đường cùng. Chỉ có chiến đấu hoặc là chết nên tất cả đã chống trả quá kiên cường, làm cho quân Triệu thực sự sợ hãi.
Không muốn mất thêm người vô ích cho đội quân mà họ cho rằng thất bại là kết quả đã định sẵn, tướng nước Triệu đã ra lệnh quay về thành. Vừa về đến nơi, họ kinh hãi thấy tua tủa những lá cờ quân Hán trên cổng thành.
Trận chiến  bối thủy - trận Tỉnh Hình
Quân Triệu bàng hoàng tưởng rằng họ bị tấn công từ phía sau. Chính tại khi ấy, tướng quân Hàn Tín phát lệnh tấn công với tất cả những gì mình có, và quân nước Triệu đã đại bại.
Trong bữa tiệc mừng chiến thắng, có người hỏi tướng quân Hàn Tín tại sao ông lại đưa quân lính của mình vào nơi có con sông ở sau lưng. Ông trả lời: “Trong tình hình như vậy, một người lính sẽ chiến đấu hết mình vì họ không thể chạy trốn. Nếu được đặt vào một nơi mà họ có thể rút lui được thì chắc chắn họ sẽ bỏ chạy”.
Chiến lược này đã được nêu thành thành ngữ “bội thủy nhất chiến” có nghĩa đen là: quay lưng vào sông mà đánh một trận (thế đánh không có đường lùi, quyết chiến).
Đây là điều kỳ diệu trong dụng binh, “Tìm đường sống trong chỗ chết” cũng chứng tỏ một điều là phải có một niềm tin cùng một kế hoạch khoa học, đúng đắn thì sẽ dẫn tới chiến thắng. Khi con người ta có một niềm tin chiến thắng, khi không còn đường lui thì sẽ chiến đấu bằng tất cả những gì mình có thể có.
BCT

Wednesday, January 17, 2018

TÀO - LƯU LUẬN ANH HÙNG VÀ BÀI HỌC LÀM NGƯỜI

Tam quốc diễn nghĩa nguyên tên là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, là một tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc được La Quán Trung viết vào thế kỷ 14 kể về thời kỳ hỗn loạn Tam Quốc (190-280) với khoảng 120 chương hồi, theo phương pháp bảy thực ba hư (bảy phần thực ba phần hư cấu. Tiểu thuyết này được xem là một trong bốn tác phẩm cổ điển hay nhất của văn học Trung Quốc. Được viết vào thế kỷ 14, nhưng Tam quốc diễn nghĩa để lại nhiều bài học trên mọi bình diện cho đến ngày nay.
Trong thiên tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa có rất nhiều định nghĩa về anh hùng, nhưng khó có nào đoạn nào miêu tả xuất sắc như tình huống “uống rượu luận anh hùng” giữa Tào Tháo và Lưu Bị. Đó là một “ván cờ cân não” mà mỗi bước đi của hai cao thủ Lưu Bị và Tào Tháo đều đầy mưu chước hung hiểm.
Bối cảnh của ván cờ này là Lưu Bị lúc đó đang thân cô, thế cô, bị thất thế nên buộc phải nương nhờ trong quân doanh Tào Tháo. Sau nhiều chiến dịch cộng tác thành công mà đặc biệt là việc đánh bại Lữ Bố, nhiều mưu sĩ của Tào Tháo đã khuyên nên giết ngay Lưu Bị để diệt trừ hậu hoạn. Lúc này, Lưu Bị ở trong quân Tào ngày ngày chăm sóc vườn tược thì bất ngờ bị Trương Liêu và Hứa Chử đến mời về phủ Tào Tháo ngay lập tức.
Vừa thấy mặt Lưu Bị, Tào Tháo đi ngay “nước cờ đầu tiên”: 
- Huyền Đức độ này ở nhà làm một việc lớn lao đấy nhỉ?
Huyền Đức sợ tái mặt. Tháo cầm tay Huyền Đức dắt vào vườn ở sau nhà, nói rằng:
- Huyền Đức học làm việc vườn, chắc cũng không phải là việc dễ dàng?
Huyền Đức bây giờ mới vững dạ, đáp rằng:
- Không có việc gì, làm để tiêu khiển đó thôi.
Huyền Đức bây giờ trấn tĩnh lại được, theo đến tiểu đình, đã thấy bày mâm bát, giữa bàn bày một đĩa mơ xanh, một bình rượu nóng. Tào Tháo giả vờ nhớ chuyện cũ nên mời Lưu Bị dùng rượu. Hai người ngồi đối diện, ăn uống vui vẻ. Lúc rượu ngà ngà say, chợt thấy mây đen mù mịt, cơn mưa sắp kéo đến. Quân hầu trỏ lên trời bẩm: “Có vòi rồng lấy nước”. Tháo đi tiếp nước cờ thứ hai:
- Sứ quân có biết rồng nó biến hoá thế nào không?
Huyền Đức nói:
- Tôi chưa được tường.
Tháo nói:
- Rồng lúc thì to, lúc thì nhỏ, lúc thì bay, lúc thì nấp. Lúc to thì nổi mây phun mù; lúc nhỏ thì thu mình ẩn bóng; khi bay ra thì liệng trong trời đất; khi ẩn thì lẩn núp ở dưới sóng. Nay đang mùa xuân, rồng gặp thời biến hoá, cũng như là người ta lúc đắc chí, tung hoành trong bốn bể. Rồng ví như anh hùng trong đời. Huyền Đức lâu nay đã đi khắp bốn phương, bao nhiêu anh hùng đời nay, hẳn đã biết cả, xin thử nói cho nghe.
Lưu Bị khiêm nhường bảo không rõ, Tháo tiếp tục tấn công bảo không rõ có thể nghe danh , Bị đành nói qua loa một loạt Viên Thuật, Tôn Sách, thậm chí là Trương Tú, Trương Lỗ và Hàn Toại v.v… tất cả đều bị Tháo gạt phăng đi, bảo không đáng kể. Đoạn tung chiêu hiểm:
- Anh hùng là người trong bụng có chí lớn, có mưu cao, có cái bao trùm được cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia.
Huyền Đức mới nói:
- Ai có thể xứng đáng được như thế?
Tào Tháo lấy tay trỏ vào Huyền Đức, rồi lại trỏ vào mình nói rằng:
- Anh hùng thiên hạ luận ra chỉ có ta và sứ quân thôi.
Huyền Đức nghe nói, giật nảy mình, cái thìa đôi đũa đương cầm ở trong tay, rơi cả xuống đất. Giữa lúc bấy giờ, con mưa u ám, có một tiếng sét thực dữ. Lưu Bị từ từ cúi xuống nhặt đũa và thìa, nói tảng rằng:
- Gớm ghê! Tiếng sét dữ quá!
Tào Tháo cười hỏi rằng:
- Trượng phu cũng sợ sấm à!
Huyền Đức nói:
- Đức thánh ngày xưa gặp lúc sấm dữ gió to cũng đổi sắc mặt, huống chi là tôi đây sao lại không sợ?
Huyền Đức đã che đậy được hết cả việc giật mình đánh rơi cả thìa đũa khi nghe Tháo gọi mình là anh hùng. Tháo thấy thế không ngờ gì Huyền Đức nữa. Sau đó không lâu, Lưu Bị nhân cơ hội được Tháo phái đi dẹp loạn, nhanh chóng bỏ đi, gầy dựng lại lực lượng…
Một ván cờ mà cả hai đều là cao thủ tinh toán. Nước đi của Tào Tháo lúc nhanh, lúc hiểm, lúc tưởng bỏ qua lại nhè chừng vồ ngược hòng làm Lưu Bị vừa kinh vừa hãi để xem thử cốt cách. Ngược lại, nước đáp trả của Lưu Bị lại nhẹ nhàng, uyển chuyển như nước chảy mây trôi, hóa giải hết đòn thế của Tào Tháo, nhờ thế mà giữ lại được một mạng cho mình.
Nhưng điều hay ho nhất trong tình huống kinh điển này là việc Lưu Bị thật sự mới là người đi nước đầu tiên trong ván cờ cân não này. Ông đã bày trận từ trước để chờ Tào Tháo ra chiêu, giống như lời kể lại với Quan Vũ, Trương Phi : “Độ này ta chịu khó làm vườn cuốc đất, cốt là để cho Tào Tháo không nghi ta có chí lớn…”
Uống rượu luận anh hùng là tình huống luận bàn, cân não kinh điển, mà rõ qua đó ta thấy cả hai loại anh hùng: một kẻ thẳng thắn, ngông cuồng như Tào Tháo, một kẻ khôn khéo, lẳng lặng nhịn nhục chờ thời cơ như Lưu Bị.
Tào – Lưu luận anh hùng để lại cho chúng ta nhiều bài học về làm người. Làm người trước hết phải hiểu mình, phải là người có chí, có khí lớn của bậc đại phu, sinh ra phải có công với núi non.
Làm người phải biết thời thế, tình thế. Khi thế yếu phải biết ẩn mình, khi thời cơ đến phải nắm lấy ngay, khi thế mạnh biết tấn công phản đòn. Cũng như Lưu Bị khi yếu thì ẩn ở Tào, khi Tào sơ suất phải biết thoát thân nhanh chóng, cũng như sau này khi lớn mạnh mới trở thành đối thủ của Tào để tạo thế chân vạc thời Tam quốc.
Làm người phải biết hy sinh cái nhỏ vì lợi ích cái lớn, lâu dài. Thắng thua, tranh giành trước mắt chỉ là hư vô, quan trọng là ta đặt được mục đích của đời mình. Như Tào Tháo nói, làm người cũng như anh hùng phải như con rồng, biết ẩn mình sâu xa, lúc ẩn lúc hiện, khiến người ta không biết được ý đồ của mình. ở đời lòng người hiểm ác khó lường, “bất tri tâm” nên phải khiêm tốn, nhận chịu học hỏi, tiến lên phía trước. Người đời có câu “vĩ đại là vì đứng trên vai những người khổng lồ”, biết đưa người khác lên trên cũng là đưa chính mình lên vậy.
Muốn làm nên nghiệp lớn phải biết ẩn mình chờ thời!
"Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong"